Chương 1: Lịch sử của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
1. Hoàng Sa
1.1 Trước thời cận đại (trước thế kỷ 19)
Quần đảo Hoàng Sa là các đảo cực nhỏ khó khăn cho con người có thể sinh sống lâu ngày, nên trở thành cơ sở phát sinh vấn đề chuyển thành các đảo có người sinh sống. Trong quần đảo Hoàng Sa dù có sóng lớn các đảo vẫn ở mức độ không chìm ngập cho nên cần phải duy trì nước và thực phẩm nếu không sẽ rất khó khăn cho việc sinh sống lâu dài cho dùng nước nào cũng không chiếm hữu có hiệu quả trong khoảng thời gian dài được.
Quần đảo Hoàng Sa đã xuất hiện trong tư liệu lịch sử của Trung Quốc từ khá lâu, Trung Quốc cho rằng là đã tìm ra quần đảo Hoàng Sa, chiếm hữu và đang chính thức hóa chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Về các điểm các tài liệu (ký lục) cổ liên quan đến các đảo này như thế nào thì chưa rõ nhưng phía Việt Nam thì hoàn toàn không giống với phía Trung Quốc.
1.2 Thế kỷ 19 - Chiến tranh Thế giới II
Sự tiếp cận tới quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ 19. Năm 1909 triều đình nhà Thanh đã cử một hạm đội cắm cờ trên đảo Hoàng Sa. Từ nửa cuối thế kỷ 19 Pháp lúc đó đang cai trị Việt Nam cũng đã tiến hành xây dựng một ngọn hải đăng trên đảo Phú Lâm một trong các đảo của quần đảo Hoàng Sa nhưng không thành vì thiếu tiền.
Từ đầu thế kỷ 20 đền năm 1939 là thời kỳ Pháp thực thi chủ quyền trên Quần đảo Hoàng Sa. Ngược lại thời kỳ này Trung Quốc do tình hình trong nước không ổn định nên sự quan tâm tới quần đảo Hoàng Sa này không đáng kể.
Vào năm 1938 Pháp đã cho xây dựng bia chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, và xây dựng một ngọn hải đăng và hai đài quan sát khí tượng, đặt đồn trú và tiến hành thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa.
Tuy nhiên, năm sau năm 1939, Nhật Bản xuất phát từ quan điểm bảo vệ tuyến đường biển đã chiếm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Pháp đã phản đối nhưng sự chiếm đóng của Nhật Bản trên hai quần đảo này vẫn tiếp tục cho đến kết thúc chiến tranh thế giới thứ 2. Nguyên thủy thì Biển Đông là tuyến đường trọng yếu nối liền Nhật Bản và Đông Nam Á cho nên để tiến hành cuộc hành quân về phương nam của quân đội Nhật bắt đầu vào cuối năm 1941 thì việc đảm bảo Biển Đông là thiết yếu.
1.3 Trả lại Trung Quốc và Pháp
Sau Thế chiến thứ hai, khi Nhật Bản rút khỏi quần đảo Hoàng Sa, Pháp tái chiếm đóng Việt Nam vào tháng 5 năm 1946, đã gửi một tàu chiến tới quần đảo Hoàng Sa, lưu trú một tuần và tiến hành khảo sát tình hình thực địa sau khi quân đội Nhật rút lui.
Cùng với việc này thì Trung Hoa Dân Quốc, vào tháng 6 năm 1946 đã cử tầu chiến đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhằm chiếm hữu từ quân đội Nhật Bản, và tháng 1 năm 1947 cho quân đến chiếm đảo Woody một đảo lớn trong quần đảo Hoàng Sa.
Mười năm sau Thế chiến thứ hai, sau khi quân đội Nhật Bản rút lui thì là thời kỳ thực thi việc xâm chiếm giữa Pháp và Trung Hoa Dân Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa trong tình trạng vô chủ.
1.4 Trung Quốc và Pháp tuyệt chủng tự nhiên
Tuy nhiên Quốc Dân Đảng của Trung Hoa Dân Quốc đã thất bại trong cuộc nội chiến vào năm 1949 và đã rút lui sang Đài Loan, năm sau 1950 binh lính Trung Hoa Dân Quốc đã rút lui khỏi quần đảo Hoàng Sa.
Ngoài ra, Hiệp đinh Geneva năm 1954 kết thúc cuộc chiến ở Đông Dương, Pháp đã rút lui toàn bộ khỏi khu vực Đông Dương bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa.
Giai đoạn này là thời kỳ phức tạp, tại Việt Nam xảy ra sự xung đột giữa hai phe, một bên là quốc gia (Pháp) nhằm tái xây dựng lại khu vực thuộc địa và một bên là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nhằm xây dựng vùng thuộc địa Pháp đã rút quân, còn tại Trung Quốc có sự xung đột giữa một bên là Cộng hòa chủ nghĩa (Trung Hoa Dân Quốc) và một bên là Cộng sản chủ nghĩa (Đảng Cộng Sản Trung Quốc), và kết quả là tương ứng tại mỗi nước thì phe sau đã chiếm ưu thế hơn phe trước.
Trong vòng 10 năm sau Thế chiến II, việc thực thi chủ quyền có hiệu quả từng phần trên quần đảo Hoàng Sa của cả Pháp và Trung Hoa Dân Quốc do cả hai rơi vào tình trạng yếu thế nên vào giữa thập niên 1950s đã từ bỏ thực thi chủ quyền một cách tự nhiên.
1.5 Hòa ước San Francisco
Theo văn bản của Hòa ước San Francisco ký kết giữa Nhật và các nước năm 1951 thì Nhật Bản tuyên bố từ bỏ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều khoản 2 của Hòa ước này viết rằng "Nhật Bản từ bỏ tất cả mọi quyền lợi trên hai quần đảo Tân Nam (Trường Sa) và Tây Sa (Hoàng Sa). Quần đảo Tây Sa là tên gọi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Tân Nam là tên gọi quần đảo Trường Sa lúc bấy giờ.
Quân đội Nhật Bản ngay sau Thế chiến thứ 2 đã rút quân khỏi hai quần đảo nên việc này chỉ đơn thuần là xác nhận sự thực bằng văn bản theo hòa ước. Tuy nhiên thực tế thì sau khi Nhật Bản từ bỏ thì hòa ước không nói trả lại các quần đảo này cho nước nào cả.
Trong Hội nghị Hòa bình San Francisco cả hai nước Trung Hoa Dân Quốc (đã chuyển tới Đài Loan đương thời và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (chiếm giữ lục địa Trung Quốc) đều không tham dự nên Nhật Bản đã ký kết Hòa ước riêng biệt với Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), gọi là Hòa ước Đài Loan. Thực tế này thì cũng không nói gì liên quan tới việc trao trả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cho nên vấn đề trao trả hai quần đảo này phát sinh vào thời kỳ lịch sử sau đó.
1.6. Chiếm đóng của quân đội Nam Việt Nam
Sau hiệp định Genève, Việt Nam được chia thành hai miền Nam Bắc theo vĩ tuyến 17, phía bắc là Cộng hòa Dân chủ Việt Nam (Bắc Việt Nam) còn phía nam là Cộng hoà Việt Nam (Nam Việt Nam).
Sự phân chia Bắc-Nam tại Việt Nam liên tục trong 20 năm từ 1954 đến 1975 nhưng vào thời kỳ này thì Nam Việt Nam tích cực tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng 4 năm 1956 Nam Việt Nam đã cử quân đội tới chiếm đóng nửa phía tây của quần đảo Hoàng Sa, và tuyên bố chủ quyền toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Việc này là việc tiếp tục việc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa từ Pháp.
1.7 Sự chiếm đóng có hiệu quả của Trung Quốc
Năm 1956, gần như đồng thời với việc Nam Miền Nam chiếm một nửa phía tây quần đảo Hoàng Sa thì Trung Quốc cũng đã chiếm đóng nửa phía đông. Kể từ đó, Nam Việt Nam và Trung Quốc mỗi nước chiếm một nửa phía tây và nửa phía đông của quần đảo Hoàng Sa liên tục 18 năm.
Vào tháng 1 năm 1974, khi kết thúc chiến tranh Việt Nam lực lượng Trung Quốc đã xâm chiếm nối nửa phía tây của quần đảo Hoàng Sa. Người ta nói rằng cuộc tấn công của Trung Quốc được thực hiện bằng một trận oanh tạc bằng không quân. Kể từ đó, toàn bộ quần đảo Hoàng Sa là do Trung Quốc chiếm đóng có hiệu quả.
Theo như Trung Quốc, quần đảo Hoàng Sa nằm trên đường tới quần đảo Trường Sa ở giữa, và có ý thức rằng nếu không bảo vệ được quần đảo Hoàng Sa và không chiếm được quần đảo Trường Sa thì không thể chiếm lĩnh được toàn bộ Biển Đông cho nên đã thực hiện chiến lược mở rộng hoạt động quân sự trên Biển Đông.
Bản đồ đã treo tường của bưu điện tại Việt Nam. Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đã được vẽ phóng đại lên, Trường Sa được vẽ gần Việt Namhơn.
Ngoài ra, các hòn đảo như đảo Côn Sơn (màu vàng phía dưới trung tâm) và đảo Phú Quốc (mầu đỏ trong Vịnh Campuchia mầu đỏ phía dưới) đã được vẽ phóng đại lên, thực tế thì các hòn đảo này cũng là những bãi san hô và bãi cát nhỏ.
2. Trường Sa
2.1 Trước khi Thế chiến II
Vấn đề trả lại quần đảo Trường Sa trở lên phức tạp ở chỗ đây là quần đảo Trường Sa tập hợp của nhiều đảo cực nhỏ, chính là cơ sở cội nguồn không phải là vùng đất mà con người có thể sinh sống được lâu dài. Cụ thể cho đến nay chưa có nước nào có dân cư sinh sống trên đó.
Như vậy, nước nào cũng thiếu chứng cứ chủ quyền cho nên mỗi nước huy động tối đa các luận cứ và tư liệu và cố gắng biện minh cho chủ quyền của mình. Đặc biệt là các tài liệu lịch sử liên quan đến quần đảo Trường Sa thì mong manh, Trung Quốc ở cự ly rất xa thì lý luận rằng vào thời đại nhà Hán vào đầu thế kỷ thứ 2 và thời kỳ nhà Minh đầu thế kỷ 15 đã đội tầu thuyền tới vùng biển thuộc về quần đảo Trường Sa và đã chiếm giữ từ đó.
Cũng như trên quần đảo Hoàng Sa sự sinh sống trên quần đảo Trường Sa khó khăn, cho nên nỗ lực của các nước thực hiện chủ quyền có hiệu quả xảy ra muộn màng. Những nỗ lực này vào thời kỳ khá sớm có thể kể đến nước Pháp. Từ 1930 đến năm 1933 Pháp đã sử dụng hải quân, thực thi chủ quyền có hiệu quả liên tục trên một số đảo của quần đảo Trường Sa.
2.2 Chiếm đóng và rút lui của quân đội Nhật Bản
Khi WWII đến gần Biển Nam Trung Hoa theo quan sát của Nhật Bản là tuyến đường hành quân quan trọng cho nên vào năm 1939 Nhật đã chiếm đống cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chuẩn bị tiến quân về phương nam.
Năm 1951 khi ký kết Hòa ước San Francisco, Nhật Bản đã chính thức từ bỏ quần đảo Hoàng Sa lẫn Trường Sa. Trong Hội nghị San Francisco cả Trung Hoa Dân Quốc ở Đài Loan và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ở lục địa đều không tham dự, năm 1952 Nhật Bản và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) đã ký kết riêng với nhau một hòa ước nhưng thực tế thì không có nói gì đền việc trao trả lại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
2.3 Nỗ lực của Nam Việt Nam
Sau Hiệp Định Genève 1954 Việt Nam đã được phân chia thành hai miền Nam Bắc qua vĩ tuyến 17, Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam được thành lập. Việc phân chia nam bắc ở Việt Nam kéo dài 20 năm từ 1954 đến 1975, nhưng thời kỳ này thì phía tích cực thực hiện chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là Nam Việt Nam.
Theo trên quần đảo Trường Sa là vùng biển cách rất xa Bắc Việt Nam nên chỉ duy nhất Nam Việt Nam liên quan đến vấn đề chủ quyền này. Năm 1956, Nam Việt Nam đã bắt đầu xây dựng bia chủ quyền trên quần đảo Trường Sa và từ đó tiếp tục xây dựng các bia chủ quyền trên các đảo.
2.4 Trở thành vấn đề quan hệ đa quốc gia phức tạp
So với quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa trở thành vấn đề đa quốc gia phức tạp hơn là có sự tham gia của các nước Philippines, Malaysia và Brunei. Đầu năm 1949, Philippines đã tuyên bố chủ chủ quyền trên quần đảo Trường Sa, và từ đầu thập niên 1970s đến thập niên 80s mở rộng việc thực thi chủ quyền có hiệu quả ra một số đảo khác.
Nếu nhìn vấn đề từ Philippines, ít nhất thì cũng là một phần quần đảo Trường Sa nằm ở vị trí có thể nói là ngoài khơi đảo Palawan dù có cảm giác rằng việc Việt Nam và Trung Quốc là hai nước ở xa tuyên bố chủ quyền là không hợp lý thì cũng không có gì là lạ. Philippines từ khoảng thế kỷ 16 suốt gần 400 năm liên tục là thuộc địa của Tây Ban Nha và sau đó là thuộc địa của Mỹ không có điều kiện tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Trường Sa. Vào năm 1946 Philippines độc lập từ Mỹ, và năm 1949 khi vừa mới độc lập Philippines bắt đầu tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Trường Sa.
Malaysia cũng bắt đầu tuyên bố chủ quyền một số đảo của quần đảo Trường Sa từ 1thập niên 1970s, vào đầu thập niên 80s đã cử quân đội và bắt đầu thực thi chủ quyền có hiệu quả trên một số đảo. Ngoài ra Đài Loan bắt chước Philippines và Malaysia năm 1956 đã chiếm giữ một đảo trong quần đảo Trường Sa.
Vì vậy, quần đảo Trường Sa không chỉ là vấn đề song phương giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc mà còn là vấn đề phức tạp liên quan tới nhiều nước, kể cả Brunei, cùng chung Biển Đông.
2.5 Sự xâm lược mạnh mẽ của Trung Quốc
Tháng 2 năm 1988, Trung Quốc tiến hành xâm lược quần đảo Trường Sa bằng quân sự, đã loại bỏ quân đội Việt Nam và chiếm một số đảo. Thời gian này, Việt Nam đã bị hư hại ba tầu quân sự và bị chết và bị thương một số đáng kể. Về quân sự mà nói thì Trung Quốc đã đánh bạn Việt Nam.
Tương tự như vậy Trung Quốc vào năm 1974 đã loại bỏ quân đội Nam VIệt Nam, cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, tiếp đến năm 1988 đã loại bỏ một bộ phận quân đội Việt Nam đều do cùng Đảng Cộng Sản lãnh đạo và tiến hành xây dựng đồn trú chân lớn trên quần đảo Trường Sa.
Tháng 5 năm 1992, Trung Quốc đã đột nhiên tuyên bố việc cho phép Công ty Năng lượng Creston của Mỹ có quyền thăm dò dầu khí trên Đá Vanguard, một bãi nông nằm phía Tây Nam của quần đảo Trường Sa. Khu vực bãi Vanguard (tên Việt Nam: bãi Tư Chính) là vùng nằm giữa Nam Bộ Việt Nam và Sarawak lãnh thổ Malaysia thì có gần Việt Nam hơn, và là vùng mà Việt Nam đã tuyên bố thuộc thềm lục địa của Việt Nam.
Có thể nói cách làm của Trung Quốc bất chấp các nước là cấp phép cho công ty tư nhân của nước thứ ba thăm dò tài nguyên ở khu vục rất xa lục địa Trung Quốc, và hợp thức hóa thành công chủ quyền đối với vùng biển đó đã làm các nước sửng sốt ngạc nhiên, đặc biệt là đã gây ra một cú sốc lớn cho chính phủ Việt Nam.
Từ năm 1994, Trung Quốc đã bắt tay vào việc hợp thức hóa chủ quyềnn thành công một cách rất quyết liệt. Tháng 2 năm 1995, Trung Quốc đã tiến hành xây dựng căn cứ quân sự tại đá Mischief (đá Vành Khăn) nằm trong vùng đặc quyền kinh tế mà Philippines đã tuyên bố, và quan hệ giữaPhilippines và Trung Quốc trở nên rất căng thẳng. Đá Mischief là một trong 8 đảo của quần đảo Trường Sa mà Philippines đang chiếm giữ.
2.6 Cuộc tranh đua ác liệt để chiếm giữ có hiệu quả
Hiện nay ngoài Brunei thì năm nước liên quan mỗi nước ít nhiều đều chiếm giữ một phần của quần đảo Trường Sa. Việt Nam cũng cho xây dựng đồn chốt trên các đảo chiếm giữ, các nước khác cũng tiến hành xây dựng đồn trú và đường băng máy bay kiên cố, đưa người đến ở và đang nỗ lực hợp thức hóa thành công chủ quyền trên các đảo mình chiếm giữ. Vào năm 1999, các nước đang tranh chấp đã hoàn thành bốn đường băng trên quần đảo Trường Sa.
Chủ yếu ở trong ba nước Việt Nam Trung Quốc và Philippines các sự kiện như là các đội phòng vệ bắn các máy bay trinh thám, bắt giữ tầu thuyền thi thoảng xảy ra cho đến nay đã trải qua mấy năm.
So với quần đảo Hoàng Sa, tình hình quần đảo Trường Sa có nhiều điểm khác nhau lớn, là tại quần đảo Trường Sa thì Trung Quốc chưa chiếm vị trí ưu thế. Từ Trung Quốc cách rất xa quần đảo Trường Sa, ngoài ra Trung Quốc chậm trễ trong việc tiến hành việc hợp thức hóa chủ quyền thành công trên quần đảo Trường Sa. Do đó Trung Quốc đã nhảy vào vòng tranh chấp, và từ sau năm 1988 đã phải có những hành động bất chấp sự hiện diện của các nước khác.
Thêm nữa việc quần đảo Trường Sa là vấn đề quốc tế phức tạp liên quan đến nhiều nước cũng đang trở thành một nguyên nhân không thể giải quyết được theo ý định của Trung Quốc như kiểu quần đảo Hoàng Sa. Đối với các nước Đông Nam Á, vì có sự tham gia của Trung Quốc nên không cho thấy có cách giải quyết thấu đáo vấn đề, và vấn đề Trường Sa tại lúc này đã chuyển sang cục diện bế tắc.
Chương 2: Sự thật về sự kiện hoàng sa 1974 và công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng 1958
1. Hoàng Sa(1974)
Cách đây hơn 3 thập kỷ, giữa lúc nhân dân Việt Nam đang tập trung nỗ lực vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; lại cũng là lúc một số nước lớn đang mặc cả và thoả hiệp với nhau để cản trở sự nghiệp thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam, thì ngày 19/01/1974, quân đội Trung Quốc đã tấn chiếm quần đảo Hoàng Sa, lúc này đang do chính quyền Sài Gòn quản lý.
Ngày 19/1/2011, mạng Văn phòng Báo chí Quốc vụ viện Trung Quốc (www.scio.gov.cn) đăng tin dưới dạng sự kiện về việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam với nội dung như sau: “Ngày 19/1/1974, quân và dân quần đảo Tây Sa của ta (Trung Quốc) tiến hành tự vệ phản kích nguỵ quân miền Nam Việt Nam – kẻ đã liên tục xâm phạm lãnh hải, không phận, cướp chiếm các đảo và gây thương vong cho ngư dân ta, bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ”.
Đến cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, Pháp với tư cách bảo hộ Việt Nam đã tiến hành quản lý Hoàng Sa – Trường Sa. Trong những lần tranh cãi giữa chính quyền bảo hộ Pháp và Trung Quốc về vấn đề Hoàng Sa, Pháp đã 2 lần yêu cầu Trung Quốc đưa vấn đề ra toà án quốc tế giải quyết, nhưng Trung Quốc không đồng ý.
Chủ quyền của Việt Nam còn được các nước thừa nhận ở một Hội nghị quốc tế quan trọng. Tháng 9/1951, tại Hội nghị Sanfrancisco, với 46/51 phiếu, các nước đã bác bỏ đề nghị trao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Cũng tại Hội nghị này, đại diện chính quyền Việt Nam lúc đó đã tuyên bố chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không có nước nào phản đối.
Trận hải chiến sinh tử tháng 1/1974
Bất chấp thực tế chủ quyền của Việt Nam, Trung Quốc đã tiến hành cuộc xâm lược quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 khi nó đang được quản lý bởi Chính quyền Sài Gòn.
Trận hải chiến chỉ diễn ra trong vòng 30 phút. 74 binh sỹ Việt Nam Cộng hòa đã hi sinh.
Ngày 20-1-1974, ngoại trưởng chính quyền Sài Gòn cũng đã gọi điện và gửi thư cho chủ tịch Hội đồng Bảo an và tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đề nghị những biện pháp cần thiết trước tình hình khẩn cấp về việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm Hoàng Sa.
Năm 1974, HĐBA LHQ đã thông qua Nghị quyết 3314 định nghĩa về hành vi xâm lược bằng vũ lực.
Vậy đã rõ sự thật lịch sử về sự kiện Hoàng Sa 19/01/1974. Lịch sử vốn không thể che đậy, càng không thể tô vẽ hay xuyên tạc. Sử liệu còn đó, nhân chứng vẫn còn đó.
2. Công Hàm(1958)
Ngày 4 tháng 9 năm 1958 chính phủ Trung Quốc ra tuyên cáo mở rộng lãnh hải của họ từ 3 hải lý thành 12 hải lý, áp dụng cho tất cả các lãnh thổ và hải đảo của Trung Quốc, trong đó họ bao gồm cả Tây Sa và Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam).
Mười ngày sau, ông Phạm Văn Đồng, thủ tướng cộng sản Việt Nam, gửi công hàm cho thủ tướng Chu Ân Lai của Trung Quốc, tán thành tuyên cáo nói trên, mà không hề có lời phản bác nào trước việc Trung Quốc ngang nhiên xem Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ của họ. Hơn một tuần sau, báo Nhân Dân ra ngày 22 tháng 9 đăng toàn văn công hàm vừa kể, để toàn đảng, toàn dân và thế giới biết hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ nay không còn là của Việt Nam nữa.
Việc cộng sản Việt Nam ủng hộ Trung Quốc công bố chủ quyền của họ trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là cần thiết, vì nó phục vụ cho cuộc chiến bảo vệ tổ quốc.
Ông đã phát biểu những lời tuyên bố trên trong tình trạng khẩn trương, chiến tranh với Mỹ bắt đầu leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ hoạt động trên eo biển Đài Loan và đe doạ Trung Quốc. Ông đã phải lập tức lên tiếng để ủng hộ Trung Quốc nhằm gây một lực lượng chống đối lại với mối đe doạ của Mỹ.
Những lời tuyên bố hoặc lập trường nào đó của chính quyền miền Bắc Việt Nam không có hiệu lực gì đối với chủ quyền. Đây không phải là chính quyền có thẩm quyền trên quần đảo này. Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không kiểm soát được…vì vậy quyết định của ông phạm văn đồng( thay mặt cho chính phủ) hoàn toàn không có hiệu lực.
Động lực của lời tuyên bố đó là tình trạng khẩn trương, nguy ngập ở Việt Nam. Đây là những lời tuyên bố có tính chính trị, chứ không phải pháp lý.
Chương 3: Bằng chứng khoa học của 2 bên Việt_Trung đưa ra
1. Trung Quốc
Luận điểm đầu tiên của chính quyền tỉnh Quảng Đông khi công khai khảo sát Hoàng Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa vào năm 1909, là cho rằng quần đảo "Tây Sa" là đất vô chủ (res nullius), hải quân tỉnh Quảng Đông cắm cờ trên đảo và bắn 21 phát súng đại bác tại một số đảo ở Hoàng Sa năm 1909.
Trung Quốc khẳng định các đảo Nam Hải đã thuộc phạm vi quản hạt của Trung Quốc từ năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường năm 789. Đúng sử sách Trung Quốc như sách Chư Phiên Chí của Triệu Nhữ Quát có chép những thay đổi về qui chế hành chính từ đời Hán đến đời Tống, trong đó có việc Quỳnh Sơn, một quận của đảo Hải Nam thời đó (xin nhấn mạnh) - sau thuộc thành phố Hải Khẩu - được đặt thành "phủ đô đốc" vào năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường, tức năm 789.
Nhưng qua các sách Đường Thư, Thái Bình Hoàn Vũ Ký, Dư Địa Kỷ Thăng (1221), Quảng Đông Thông Chí (1842) thì vào năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường tại đảo Hải Nam chỉ thấy có chuyện kể viên đô đốc nhà Đường là Lý Phục mang quân sang lấy lại đảo Hải Nam sau hơn 100 năm dân bản địa nổi dậy làm chủ đảo và xin vua Đường đặt phủ đô đốc ở quận Quỳnh Sơn, không hề có chuyện "sáp nhập bất kỳ đảo ở biển Nam Trung Hoa vào đảo Hải Nam".
Trung Quốc phái thủy quân đi "tuần tiễu", Trung Quốc đã viện dẫn các sự kiện để chứng minh. Trước hết về luận cứ "phái thủy quân tuần tiễu cương giới biển", luận chứng của nhóm Hàn Chấn Hoa chỉ dựa vào một đoạn trong sách Vũ Kinh Tổng Yếu, song những đoạn văn này hoàn toàn không chứng minh được lập luận "Trung Quốc phái thủy quân tuần tiễu quần đảo Tây Sa bắt đầu đời Tống".
Nhóm Hàn Chấn Hoa đã cố gán ghép hai đoạn văn vào với nhau gồm đoạn văn nói về lộ trình "Từ đồn Môn Sơn đến các nước Đại Thực, Phật Sư Tử, Thiên Trúc" tiếp liền vào đoạn văn đầu viết về "đặt dinh lũy thủy quân tuần tiễu ở hai cửa biển Đông và Tây". Điều này không đúng với nguyên bản Vũ Kinh Tổng Yếu. Đây chỉ là sự cố gán ghép "đầu Ngô mình Sở" để cố minh chứng việc tuần tiễu thủy quân đời Tống qua đất "Cửu Nhũ Loa Châu" mà nhóm này cho là Tây Sa.
Còn việc tuần tiễu của Ngô Thăng, trước hết tìm hiểu vị trí các địa danh trên, chúng ta được biết Quỳnh Nhai là thủ phủ Quỳnh Châu ở phía bắc đảo Hải Nam, Đồng Cổ là quả núi cao 339m ở phía đông bắc đảo Hải Nam, Thất Châu Dương là phía đông đảo Hải Nam, Tư Canh Sa là bãi cát phía tây đảo Hải Nam. Đây chỉ là cuộc tuần tiễu của Ngô Thăng quanh đảo Hải Nam, chứ không đến Tây Sa, nên nhớ rằng Thất Châu Dương ở phía đông đảo Hải Nam nên không hề là Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam, vốn cách Hải Nam hơn 350 hải lý về phía đông nam.
Các đảo Nam Hải đã được vẽ vào bản đồ Trung Quốc. Các tác giả bộ sưu tập do Hàn Chấn Hoa chủ biên cũng rất "công phu" đưa ra 13 bản đồ và chia làm hai loại. Một loại là bản đồ Trung Quốc thời Minh Thanh có vẽ các đảo Nam Hải. Một loại khác là bản đồ Trung Quốc thời Minh Thanh và các nước phiên thuộc, cũng có vẽ các đảo Nam Hải.
2. Việt Nam
Có rất nhiều bản đồ chính thức của Trung Quốc từ đời Nguyên, Minh đến Thanh, trong đó có bản đồ ấn bản gần thời điểm có tranh chấp như bản đồ Đại Thanh Đế Quốc trong Đại Thanh Đế Quốc toàn đồ, xuất bản năm 1905, tái bản lần thứ tư năm 1910 đã vẽ cực nam của lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam, không vẽ bất cứ hải đảo nào khác ở biển Đông.
Bản đồ Hoàng Triều Nhất Thống dư địa tổng đồ trong cuốn Hoàng Thanh Nhất Thống dư địa toàn đồ xuất bản năm Quang Tự 20 (1894) đã ghi rõ cực nam lãnh thổ Trung Quốc là Nhai Châu, phủ Quỳnh Châu, Quảng Đông ở 18 độ 30 phút Bắc, trong khi Tây Sa hay Hoàng Sa được Trung Quốc đặt tên, có đảo ở vị trí cao nhất là 17 độ 5 phút. Điều này chứng tỏ Tây Sa hay Hoàng Sa chưa hề là lãnh thổ của Trung Quốc.
Trong khi đó, ngay tài liệu của chính người Trung Quốc như Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán đã cho biết Chúa Nguyễn sai thuyền khai thác các sản vật từ các tàu bị đắm ở Vạn Lý Trường Sa, tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã xuất hiện liên tục qua các đời: từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi tới triều Nguyễn (từ vua Gia Long), Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức rõ ràng.
Thời kỳ Đại Việt, từ thời kỳ Nam Bắc phân tranh và thời Tây Sơn, nguồn tư liệu về Hoàng Sa hầu như chỉ còn lại tư liệu của chính quyền họ Trịnh ở Bắc Hà, chủ yếu là Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư, năm 1686, trong Hồng Đức Bản Đồ hay Toản Tập An Nam Lộ trong sách Thiên Hạ bản đồ và Phủ Biên Tạp Lục,năm 1776 của Lê Quý Đôn.
Trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư hay Toản Tập An Nam Lộ, năm 1686 có bản đồ là tài liệu xưa nhất, ghi rõ hàng năm họ Nguyễn đưa 18 chiến thuyền đến khai thác ở Bãi Cát Vàng. Còn tài liệu trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn, năm 1776 là tài liệu cổ, mô tả kỹ càng nhất về Hoàng Sa, quyển 2 có hai đoạn văn đề cập đến việc Chúa Nguyễn xác lập chủ quyền của Đại Việt tại Hoàng Sa bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.
Sang thời kỳ triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1909, có rất nhiều tài liệu chính sử minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
- Dư Địa Chí trong bộ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú (1821) và sách Hoàng Việt Địa Dư Chí (1833). Nội dung về Hoàng Sa của hai cuốn sách trên có nhiều điểm tương tự như trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn cuối thế kỷ XVIII.
- Đại Nam Thực Lục phần tiền biên, quyển 10 (soạn năm 1821, khắc in năm 1844) tiếp tục khẳng định việc xác lập chủ quyền của Đại Việt cũng bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.
- Đại Nam Thực Lục Chính biên đệ nhất kỷ (khắc in năm 1848); đệ nhị kỷ (khắc in xong năm 1864); đệ tam kỷ (khắc in xong năm 1879) có cả thảy 11 đoạn viết về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều nội dung mới, phong phú, rất cụ thể về sự tiếp tục xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Tài liệu rất quí giá là châu bản triều Nguyễn (thế kỷ XIX), hiện đang được lưu trữ tại kho lưu trữ trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của các đình thần các bộ như Bộ Công, và các cơ quan khác hay những dụ của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, đo đạc, vẽ họa đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc... Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) có chỉ đình hoãn kỳ vãng thám, sau đó lại tiếp tục.
- Trong bộ sách Đại Nam Nhất Thống Chí (1882 soạn xong, 1910 soạn lại lần hai và khắc in) xác định Hoàng Sa thuộc về tỉnh Quảng Ngãi và tiếp tục khẳng định hoạt động đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản...
Ngoài ra các bản đồ cổ của Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đều vẽ Bãi Cát Vàng hay Hoàng Sa và Vạn
Theo Cổ kim đồ thư tập thành, bộ bách khoa thư gồm 1 vạn quyển do Thanh triều tổ chức biên soạn, hoàn thành năm Khang Hi thứ 45 (1706), phần Chức Phương điển(sách điển chế về địa đồ các đơn vị hành chính) quyển thứ nhất, các địa đồ số 1, 157, 167 tức Chức Phương tổng bộ đồ, Quảng Đông cương vực đồ, Quỳnh Châu phủ cương vực đồ đều không thấy ghi nhận các quần đảo xa hơn Hải Nam ngày nay.
Lý Trường Sa trong cương vực của Việt Nam.
* Những tư liệu phương Tây xác nhận về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: - Nhật ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam. - Le mémoire sur la Cochinchine của Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) viết vào những năm cuối đời Gia Long (hoàn tất năm 1820) đã khẳng định năm 1816 vua Gia Long đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Paracels. - An Nam Đại Quốc Họa Đồcủa giám mục Taberd xuất bản năm 1838 khẳng định Cát Vàng (Hoàng Sa) là Paracels và nằm trong vùng biển của Việt Nam. - The Journal of the Asiatic Society of Bengal, Vol. VI đã đăng bài của giám mục Taberd xác nhận vua Gia Long chính thức giữ chủ quyền quần đảo Paracels). |
- The Journal of the Geographycal Society ofLondon (năm 1849) GutzLaff ghi nhận chính quyền An Nam lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ để thu thuế ở Paracels...
Về những tư liệu của Trung Quốc và phương Tây minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, người ta thấy:
- Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696. Trong quyển 3 của Hải Ngoại Ký Sự đã nói đến Vạn Lý Trường Sa khẳng định Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa.
- Các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Tây Sa và Nam Sa không thuộc về Trung Quốc.
Khảo sát tất cả bản đồ cổ của Trung Quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực nam của biên giới phía nam của Trung Quốc.
Sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1-1974, nhiều đoàn khảo cổ Trung Quốc đến các đảo thuộc quần đảo này và gọi là “phát hiện” nhiều cổ vật như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các hòn đảo này, song đều không có giá trị gì để minh xác chủ quyền Trung Quốc, trái lại họ lại phát hiện ở mặt bắc ngôi miếu “Hoàng Sa Tự” ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boisée), lại là bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam.
Chương 4: Bối cảnh hiện nay
Ngoài 7 đảo (bãi đá ngầm) do Trung Quốc khống chế và đảo Ba Bình (Trung Quốc gọi là Thái Bình, đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa) do Đài Loan đóng giữ ra, tổng cộng có 42 đảo (bãi đá ngầm) bị các quốc gia khác chiếm đóng.
Trung Quốc cần gấp rút triển khai xây dựng cảng khẩu và sân bay trên biển thuộc khu vực Nam Sa ( Trường Sa Việt Nam ). Trung Quốc cho hay tổng cộng quần đảo Nam Sa gồm có hơn 500 đảo lớn nhỏ, trên thực tế Trung Quốc chỉ chiếm giữ 4 đảo hiện Việt Nam chiếm giữ 29 đảo, ngoài ra Philipin, Malaixia chiếm giữ một lượng nhỏ. ... Tại khu vực này Phía Trung Quốc chưa có một mỏ khai thác dầu nào cả trong khi các nước khác đã có hơn 1000 mỏ dầu, mỗi năm khai thác 500 vạn tấn đến 1 tỷ tấn dầu. Đặc biệt gần đây Việt Nam hợp tác với Mỹ, Anh, Nga thành lập nhiều công trình khai thác dầu mỏ lớn, đó là một bất lợi và ảnh hưởng rất lớn đối với Trung Quốc. Về lĩnh vực quân sự bên cạnh tác động của Mỹ trên biển hai nước Việt Nam Philipin không ngừng tăng cường sức mạnh quân sự gây áp lực với phía hải quân Trung Quốc. Tất cả những hành động đó đối với Trung Quốc như một biểu hiện của sự khiêu chiến. ... Phía quân đội Giải Phóng Quân Trung Quốc tuyên bố, với thực lực Hải Quân của TQ tại Nam Sa, TQ đủ khả năng bảo vệ và giữ gìn lãnh thổ của mình, đủ sức đánh đuổi những âm mưu thù địch. Phía Giải Phóng Quân cho hay hiện tại hải quân Trung Quốc đủ khả năng để khống chế quần đảo Nam Sa ngoài Mỹ hải quân của Philipin, Việt Nam, Malaixia vẫn còn rất lạc hậu. ..không đủ sức xâm phạm được các đảo của TQ, nhưng Trung Quốc vẫn cần phải tăng cường sức mạnh hải quân cao hơn nữa, Quần đảo Nam Sa có chiều dài khoảng hơn 800 km, trước diễn biến quân sự phức tạp của Việt Nam, Philipin, Malaixia và Mỹ vì vậy Trung Quốc rất cần thiết phải xây dựng các sân bay quân dụng và cảng khẩu. Khi đó hải quân Trung Quốc đủ hiệu lực để khống chế Nam Sa, tạo thế cân bằng quân sự trên biển
Ở miền tây Trường Sa, Việt Nam đóng 1 tiểu đoàn 600 quân và thiết lập Bộ chỉ huy trên đảo Trường Sa (Nam Uy), vực chiếm đóng của Việt Nam trên Trường Sa đã hình thành một vùng chuỗi đảo, từ đảo Song Tử Tây (Nam Tử) đến đảo An Bang (An Bà Sa Châu) dài khoảng 230 hải lý, trong đó tại 29 đảo có quân đội đóng giữ. hải quân Việt Nam đang đóng 30-40 chiến hạm, đồng thời chuẩn bị đầu tư 3,8 tỷ USD xây dựng một quân cảng lớn tại vùng Đông bắc, thay thế một loạt rada cảnh giới tầm xa nhằm tăng cường lực giám sát khống chế vùng lãnh hải nam Biển Đông của Trung Quốc.
Về phía biển Đông hiện nay Trung Quốc có hai đối thủ đáng ngại nhất là Nhật Bản và Việt Nam, liên tục sảy ra các vấn đề về chủ quyền biển bắt buộc Trung Quốc cần có những biện pháp ngăn chặn kịp thời. Về vấn đề Nam sa ( Trường Sa Việt Nam ) Trung Quốc vẫn lấy sức mạnh quân sự làm chủ bên cạnh đó vẫn cùng Việt Nam thương lượng đàm phán. Về vấn đề quan hệ giữa Việt Trung cần phải tìm ra phương pháp thỏa đáng nhất để hai nước có thể hài lòng chấp nhận nhưng đó không phải là một việc đơn giản có thể thực hiện trong tức khắc. Với mâu thuẫn trên biển Hải Nam lần này nếu phía Việt Nam có những hành động thái quá khiêu khích Trung Quốc sẽ đủ lí do để phát động quân sự tấn công. Có lẽ cũng chỉ có tấn công quân sự vấn đề giữa Trung Quốc và Việt nam mới được giải quyết triệt để. Trước mắt quân đội Trung Quốc để mặc cho quân đội Việt Nam tự thỏa mãn với khả năng quân sự của mình, chỉ cần phía Việt Nam có động thái khiêu khích và xâm phạm quyền lợi trên biển Trung Quốc lập tức có biện pháp trả đũa. Cũng giống như cách sử lý với việt nam trong cuộc hải chiến Tây Sa năm 1974 và Nam Sa năm 1988. ............
Mấy năm gần đây Việt Nam không, ngừng cùng các nước Mỹ, Nga, Pháp, Anh, Đức v.v. không ngừng ký hợp, đồng thăm dò dầu khí, ý đồ nhấn mạnh sự chiếm hữu thực tế đối với Trường Sa. Chỉ nửa đầu năm 2006, Tổng Công ty dầu khí Việt Nam đã khai thác 12,37 triệu tấn dầu khí, trong đó 8,6 triệu tấn dầu thô và 3,765 tỷ m3 khí, xuất khẩu đạt 4,14 tỷ USD.
Chúng ta điểm qua về tình hình quân sự Việt Nam những năm gần đây. .. Qua biểu hiện động thái quân sự thìViệt Nam có những hành động hết sức đáng lo ngại, Việt Nam ra sức tăng cường sức mạnh hải quân và không quân, liên tiếp giao dịch vũ khí với Nga, đơn cử năm 2005 Việt Nam đã nhận hàng của Nga là hệ thống tên lửa phòng không S-300 cải tiến, ngay sau đó là 12 chiếc Su-30Mk2, gần đây nhất Việt Nam đầu tư 1,8 tỷ đô la mỹ đặt hàng Nga 6 chiếc tàu ngầm lớp KILO và hàng loạt các tàu chiến được trang bị hiện đại có khả năng tác chiến trên không và dưới vô cùng lợi hại.
Chương 5: Hành động của các nước liên quan
Trước thái độ ngày càng cứng rắn của Trung Quốc ở Biển Đông, các nước Đông Nam Á, Mỹ, Nga, Ấn Độ và Úc đã bày tỏ quan tâm về chủ đề này. Chỉ có Mỹ là có thể có đủ cả sức mạnh và ý chí để đối trọng Trung Quốc ở Biển Đông – sự quan tâm của EU, Nhật, Nga, Ấn Độ về Biển Đông có hạn chế. Mỹ vượt trội Trung Quốc về sức mạnh, nhưng sức mạnh mà một nước có thể áp dụng cho một vấn đề là tích số của sức mạnh và ý chí. Trên diện ý chí về Biển Đông, nhất là về lâu về dài, Trung Quốc có thể vượt trội Mỹ.
Trung Quốc đã chứng minh rằng quyết tâm của họ về đảo có thể tồn tại và phát triển trong hơn 100 năm. Mặc dù chúng ta không biết rõ Trung Quốc đã có tham vọng về 75% Biển Đông từ lúc nào, không thể coi thường quyết tâm của họ về biển.
Miến Điện nằm ngoài Biển Đông, sẽ không bị thiệt hại nhiều nếu Biển Đông trở thành ao nhà của Trung Quốc. Trung Quốc có nhiều khả năng để thuyết phục Miến Điện.
Ngay cả nếu các nước ASEAN đoàn kết, Trung Quốc cũng vẫn mạnh hơn. Không những thế, Trung Quốc sẽ tìm cách làm giảm sự hỗ trợ của ASEAN cho các nước Đông Nam Á trong tranh chấp.
Thái Lan nằm trong Vịnh Thái Lan, tương đối cách biệt với những vùng yêu sách của Trung Quốc, và cũng là đối tượng khả thi để Trung Quốc thuyết phục.
Campuchia đã tuyên bố “chống quốc tế hoá” tranh chấp Biển Đông, mua hàng loạt xe tăng và xe bọc thép từ châu âu
Đáng lẽ Philippines phải kề vai sát cánh với Việt Nam.
Nhưng việc Philippines ký hợp đồng khảo sát với Trung Quốc tại khu vực Trường Sa vào năm 2004 và phản đối các báo cáo thềm lục địa của Việt Nam và Malaysia vào năm 2009 cho thấy Manila chưa phải là đồng minh đáng tin cậy với Hà Nội.
- Dư Luận quốc tế cho Rằng: Trung Quốc tìm lực quân sự rất mạnh, với ý chí cao, kiên quyết cứng rắn trong vấn đề này, khả năng đánh bại Việt nam không phải là đều ko tưởng. Còn về Phía Việt Nam: họ có tinh thần dân tộc, chiến đấu bằng ý chí kiên cường nên chiến thắng là có thể giành được.
Chương 6: So sánh quân sự hai nước Việt –Trung
1. Việt Nam
xét về quân sự thì mình thua xa TQ. Vì ngân sách đầu tư cho quân sự hằng năm của VN là 650 triệu USD, còn TQ là gần 56 tỷ USD (nguồn www.nationmaster.com)... Nhưng sự chuẩn bị của VN cũng làm nức lòng anh em, đó là 2 chiếc Gepard - Project 11162 ( http://red-stars.org...1661_Gepard.jpg ), đặt thêm 12 tàu tên lửa tuần liểu cao tốc, hệ thống phòng thủ bờ biển Basion, đang thương lượng để mua tên lửa, vũ khí quốc phòng tâm huyết của Ấn Độ...
-Không quân : Trang bị không của Việt Nam chủ yếu gồm có một số máy bay chiến đấu tiên tiến của Nga Su-30MK2 và Su-27SK. Về địa hình của Việt Nam lại có nhiều điểm bất lợi, giữa Nam và Bắc cách nhau đến 1600 km tính theo chiều dài, nhưng chiều rộng lại rất nhỏ. .. chỗ hẹp nhất của Việt Nam chỉ khoảng 50 km. Với địa hình như vậy nếu sảy ra chiến tranh không quân Việt Nam sẽ khó lòng mà phòng thủ được một cách tốt nhất, đó cũng là một bài toán lớn cho những nhà quân sự Việt Nam. Chính vì vậy mà Việt Nam chỉ còn cách hiện đại hóa quân sự, tăng cường thế mạnh không quân, việt nam đã nhập khẩu của Nga vài chục chiếc máy bay chiến đấu hiện đại với mục đích chính tăng hệ thống phòng thủ và chiến thuật không quân. .......
Su-30MK2V - VN
- Hải quân : Hải quân Việt Nam có khoảng trên 120 chiếc tàu chiến các loại tổng trọng lượng trên 5 vạn tấn, bao gồm tàu bảo vệ, tàu tên lửa, tàu ngầm. .. Đa số các thiết bị hải quân cảu Việt Nam vẫn là hàng cũ từ những thập niên trước do Liên Xô viện trợ. .. nhưng do thiếu linh kiện và bảo dưỡng số lượng thiết bị đó không còn được sử dụng hoặc không thể sử dụng. Những năm trở lại đây để củng cố quốc phòng, tăng cường sức mạnh hải quân Việt Nam đã không ít lần Việt Nam đặt hàng Nga mua nhiều lớp tàu chiến, tàu ngầm và tên lửa. Hơn nữa Nga đã cung cấp cho Việt Nam kỹ thuật sản xuất chế tạo tên lửa chống hạm âm thanh tốc SS-N-26 và bản quyền một số lớp tàu hạng nhẹ, thuyền máy có trang bị vũ khí tên lửa. Nhưng cho dù hải quân Việt Nam có mua của Nga lớp tàu nào tên lửa nào đi nữa thì Việt Nam cũng chỉ có thể sắm những vũ khí bình thường của Nga, không thể có được những tên lửa hiện đại nhất, tàu chiến lợi hại nhất và cả tàu sân bay. .. Trên các tàu chiến của hải quân Việt Nam vẫn còn sử dụng lớp tên lửa lạc hậu S-N-2 trong khi hải quân Trung Quốc tối thiểu đã sử dụng thế hệ tên lửa chống hạm Ưng Kích ( YL-83 ). Giả sử Việt Nam nhận được hàng của Nga là lớp tàu bảo vệ có trang bị hệ thống chống ngầm nếu đem so sánh với lớp tàu bào vệ 054A của Trung Quốc nhất định có sự chênh lêch lớn, ngoài ra về phương diện tác chiến phòng không và chống hạm hải quân Trung Quốc đã có không ít kinh nghiệm và kỹ thuật đảm bảo vượt xa hải quân Việt Nam. Xem ra nếu hải quân Việt Namkhông có sự hỗ trợ của không quân thì ngay đến lớp tàu bảo vệ mới này của hải quân VN cũng chỉ là miếng mồi cho những phi cơ Trung Quốc. .......
2. Trung Quốc
- Hải quân : Theo báo cáo quân sự từ năm 2000 thì hải quân Trung Quốc có ba đại hạm đội, trong đó hạm đội Hải Nam có số lượng tàu chiến lớn nhất. Với số lượng lớn các tàu chiến, tàu khu trục hạm, tàu ngầm. .. Hạm đội Hải Nam hải quân Trung Quốc thuộc phía Nam Trung Quốc đã thành lập ra hạm đội tác chiến liên hợp và không ngừng tăng cường, cải tiến số lượng trang thiết bị. Theo báo cáo mật của hải quân thì tại đào Hải Nam được trang bị 2 tàu ngầm lớp KILO, 2 tàu ngầm lớp ( Tống ) 039A và trên 6 tàu ngầm lớp ( Minh ) 035G. ......
Không quân : Về phía đào Hải Nam danh sách các máy bay chiến đấu của Trung Quốc gồm có Su-30MKK, J-10, J-11, J-8... với khả năng tiếp dầu trên không, với số lượng và tiềm lực không quân như vậy thì hỏa lực tấn công của Trung Quốc vô cùng lớn. Sức mạnh lớn nhất của không quân Hải Nam vẫn dựa vào Su-30MKK2, có thể thực hiện nhiều loại hình chiến thuật trên không, có thể phối hợp với hải quân trong chiến đấu, đặc biệt Su-30MKK2 có thể mang theo loại tên lửa KH-31P, KH-31P có hành trình trên 200 km, vận tốc trên 2 M, nó có thể đánh chìm hệ thống rada tác chiến điện tử của bất kỳ hạm đội hải quân nào. Mặc dù vậy nhưng do diễn biến trên biển ngày càng phức tạp, phải đối phó với nhiều mối đe dọa của các nước láng giềng. ... không quân, hải quân quân Trung Quốc ngày một chuyển mình, cần phải phát triển hơn nữa đủ khả năng đối phó với các thế lực thù địch
Chương 7: Hành Động Phía Việt Nam (mềm dẻo và khôn ngoan)
Mượn vấn đề Biển Đông tác động tới ASEAN, Việt Nam làm Chủ tịch luân phiên ASEAN. Ngay sau khi kết thúc Hội nghị cấp cao ASEAN 16, Lãnh đạo cấp cao Việt Nam đã bày tỏ thái độ chính trị khác thường đối với vấn đề Biển Đông.
Giọng điệu chống lại Trung Quốc của Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, ASEAN liên kết lại gây áp lực với Trung Quốc. Việt Nam có 3 M ục Ti êu: Thứ nhất là, d ựa vào ASEAN, hình thành cục diện 10 đấu 1 nhằm gây áp lực với Trung Quốc; thứ hai là, quốc tế hóa vấn đề Biển Đông; thứ ba là tạo địa vị làm chủ ASEAN. ASEAN, Việt Nam bắt đầu đưa vấn đề Biển Đông vào chương trình nghị sự của ASEAN, tìm kiếm tiếng nói chung trong ASEAN, tạo niềm tin với ASEAN.
Xu hướng của Việt Nam Là Hòa Bình, không muốn chiến tranh tiếp diễn.
Mặt khác việt nam luôn có những giải pháp tinh tế cho mọi tình huống, nhằm thoát khỏi ý đồ của trung quốc.
Tăng cường kí các hiệp định biên giới, cắm cột mốc, súc tiến ngoại giaoi với các nước trong khu vực, luôn theo xem xét hành động của liên hợp quốc.
Tiến hành giảm dư luận trung nước, giảm thối thiểu hoan mang cho người dân, âm thầm tiêu diệt các thế lực thù địch chống phá cách mạng trong nước.
Tăng cường tạo niềm tin của đảng CSVN đối với nhân dân đồng thời cũng không ngừng cảnh giác, hiện đại hóa quân đội, nâng cao kỉ năng chiến đấu, trang bị vũ khí ngày càn tối tân-hiện đại, tập trung phát triển không quân và hải quân, mua hàng loạt tàu ngầm, chiến hạm. tăng cường khả năng phòng thủ trên biển.
Chương 8: Tóm tắt cục diện hiện nay
Nếu quân đội dùng vũ lực giải quyết tranh chấp Biển Đông, nhất là tiếng nói cháy bỏng của họ muốn đánh gi ành lại quần đảo đã một thời được bàn luận xôn xao, dân chúng căm phẫn hô hào phải tiêu diệt, bởi vì Việt Nam và trung quốc xâm chiếm chủ quyền đảo của nhau nhiều nhất, hai nước Trung Việt tồn tại tai họa âm ỉ chiến tranh. Cuộc chiến này có bùng nổ hay không quyền chủ động nằm trong tay Trung Quốc, nhưng cũng chủ yếu quyết định bởi sự thể hiện bước tới của Việt Nam..
Cả nhân dân 2 nước đều căm thủ lẫn nhau, nhân dân việt nam bàn cái gì về trung quốc, thì bên kia trung quốc cũng như thế(họ cho rằng VN đã chiếm đảo của họ).
Nhật Bản đang không hài lòng về trung quốc, nên nếu có biến động gì trên biển đông, rất có khả năng nhật sẽ vào cuộc. mỹ bảo trợ quân sợ cho nhật bản, tham gia sâu vào vấn đề đông nam á và biển đông, tăng cường hạm đội trên thái bình dương: Mỹ sẽ hành động khi biển đông có sự cố.
Chương 9: Âm mưu của các thế lực thù địch
phản động trong nước:(binh lính ngụy quyền, tàn dư nhà nước Việt Nam Công Hòa, bọn chống phá đảng, nhà nước >> cùng bè lũ tay sai)
1. Liên tục kích động biểu tình với danh nghĩa dành lại hoàng sa và trường sa.
2. Kích động chiến tranh, phân biệt đối xử với người hoa ở việt nam
3. Các phần tử cơ hội gây xung đột với cảnh sát chính quyền địa phương khi biểu tình, để tranh thủ thời cơ nói xấu đảng và nhà nước.
4. Moi móc các sự yếu kém của bộ máy nhà nước, tìm kiếm sai lầm của đảng, của các cán bộ thuộc bộ máy nhà nước để phán ánh chế độ XHCN.
5. Kích động tôn giáo đấu tranh, kích động các dân tộc thiểu số biểu tình chống chính phủ.
Ngụy Quân và phản động ở ngoài nước:
- Liên tục gởi tiền và vật chất về nước, loan tin kích động biểu tình, móc nối với tay sai trong nước.
Liên tục đăng tải các bài viết,các video clip, ca nhạc phản động, các dự án chống chính phủ Lên:
Youtube, facebook, yahoo,Email,diễn đàn,……
>> với xảo biện: (giặc tàu đã áp bức nước ta nhiều lần rùi, không thể để cho bọn chúng lấn tới, nhân dân viêt nam đã từng tiêu diệt bọn chúng với lịch sử anh hùng, hãy lên tiếng, hãy đổ máu cho đất nước, cho hoàng sa trường sa,…(khi chiến tranh chúng sẽ nhảnh vô kiếm chát).
- Luôn nói:”Tôi, Những người yêu đất nước không muốn phải hèn yếu như vậy”
- Ách thống trị của đảng CSVN do ông hồ chí minh tạo ra đã đàn áp nhân dân biểu tình, bắt giam người yêu nước, ….
- CSVN chỉ là cái vỏ để thực hiện âm mưu của quốc tế cộng sản do liên xô cầm đầu.)
>>>>>>>>>>sau đó bị dân việt nam chữ rũa là “bọn bán nước” quá trời luôn, sau đó chúng tắt chế độ comment tại các diễn đàn và youtube.
Các thế lực phương tây muốn đè bẹp chế độ xã hội chủ nghĩa:
Thăm dò tình hình của các bên sau đó thu lợi nếu chiến tranh xảy ra, một bộ phận hợp tác với việc kiều ở nước ngoài.
Phần tử xấu trong xã hội:
Do làm nhiều điều sai lầm bị nhà nước trừng trị, nên phản cảm, muốn chống chính phủ, nhằm nói lên sức mạnh của mình.
Chương 10: Nhận định khách quan và hành động của chúng ta
HÃY NHÌN LẠI XEM( TBCN, THỰC DÂN, BỌN NGỤY VÀ CHÍNH QUYỀN CỦ ĐÃ LÀM ĐƯỢC GÌ CHO NHÂN DÂN TA-HAY CHỈ MANG LẠI SỰ ÁP BỨC VÀ KHỔ ĐAU CÙNG CỰC)
>>> MÀ CHÍNH LÀ ĐẢNG ĐÃ MANG LẠI TẤT CẢ>>HÃY GIỮ VỮNG NIỀM TIN NÀY--NIỀM TIN CHO CHÍNH PHỦ.
- Chiến tranh vừa kết thúc, chính phủ đang gồng mình lên để kéo con tàu cách mạng, cố gắng xây dựng một nhà nước dân chủ, xây dựng cơ sở vật chất từ một đống đổ nát.
- Đã làm cho người người sống trong cảnh hòa bình, cơm no áo ấm, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của 1 công dân.
- Mặt dù còn nhiều sai xót và yếu kém trong quản lý và điều hành bộ máy, nhưng cũng đang từng ngày đổi mới và hoàn thiện hơn.
- Chúng ta cũng thừa biết: nhân dân ta trước nay điều bị giặc tây giặc tàu xâm chiếm, sống trong cảnh áp bức nô lệ hàng ngàn năm, lịch sử của ta đầy ắp chiến tranh. Từ thời phong kiến tới giờ nhân dân luôn chịu trong cảnh lầm than, khổ sở, đổ máu, đau thương vì chiến tranh.
>>>nhân dân ta không háo chiến mà là muốn có cuộc sống tự do và bình yên nên đành chỉ có 1 con đường là tiếp tục chiến đấu
- Bác Hồ cũng ko hề thích chiến tranh, nhưng Bác đã quyết chiến đấu để tương lai không còn phải chiến đấu nữa và nhân dân ta đã cùng Bác làm nên 1 lịch sử hào hùng của dân tộc.
- Bác đã từng nói: ”tôi chỉ có 1 giấc mơ, là ai ai cũng cơm no áo ấm”, và lời nhắn nhủ cuối cùng cũng là mang lại bình yên cho nhân dân.
- “Vua Hùng đã có công dựng nước bác cháu ta hãy cùng nhau giữ lấy nước”
>>”giữ lấy nước” chính là giữ lại nhân dân>> nhân dân còn>> đất nước còn.
>>chúng ta hãy giữ nước bằng chính sức mạnh ý chí của toàn đảng toàn dân, chứ không phải đổ máu, tạo cảnh lầm than, chết chóc,….khiến cho bác hồ thất vọng.
Hành động
Hãy Đăng tải Các bài vết hoặc videoclip thể hiện tiếng nói của bạn về vấn đề bi biển đảo, giải quyết qua thương lượng hòa bình, kiên quyết lên tiếng cho các hành động bi ểu tình thái quá, hành động chông chính phủ,….
- Không nên hùa theo các buổi biểu tình, tụ tập bàn tán vũ lực về vấn đề hoàng sa trường sa và gợi ý chiến tranh.
- Hãy dõi theo các hành động của chính phủ, dịch các bài chứng minh khoa học sang tiếng trung, Đăng tải trên các diễn đàn của trung quốc.
- Quyết lên án các bài viết và video của bọn phản động
- Tin tưởng và những bước đi mà đảng và nhà nước đang thực hiện
- Hãy tìm hiểu và cho mình 1 câu trả lời chứ đừng nghe những gì người khác nói.
- Dân dân trung quốc cũng giống như nhân dân việt nam, muốn bảo vệ chủ quyền của bình,(khi đem ra tranh cải đâu hẳn là bên đó không đúng, chỉ là không bên nào chịu thua, và những điều các bạn đã được xem được nghe chỉ từ 1 phía mà thôi, phải nghe từ 2 phía mới biết đúng sai thế nào).
- HÃY SUY NGHĨ TA LÀ NGƯỜI DÂN TRUNG QUỐC KHI ĐÓ TA SẼ NGHĨ(NHƯ TA ĐANG NGHĨ HỌ BÂY GIỜ)
(người dân nước nào cũng là người, đừng vì 1 mục đích, 1 chế độ, 1 mệnh lệnh, 1 cách cai trị mà ra tay tàn sát lẫn nhau ----- ta thù họ, họ thù ta, cả 2 thù nhau, ai đúng, ai sai, cả 2 ngoan cố)
- ĐỪNG MANH ĐỘNG- HÃY DÙNG SỰ KHÔN NGOAN ĐỂ MÀ CHIẾN THẮNG
- HÃY LÀM 1 NGƯỜI VIỆT NAM YÊU NƯỚC BẰNG CÁCH GỬI CHO 10 NGƯỜI BẠN THÂN CỦA BẠN CÙNG ĐỌC, ĐỀ CÙNG NHAU GIỮ VỮNG NỀN HÒA BÌNH, HÃY LÊN TIẾNG LÀM 1 VIỆC CÓ Ý NGHĨA >> RỒI SỰ MAY MẮN VÀ HẠNH PHÚC SẼ ĐẾN VỚI BẠN TRONG NGÀY MAI.
Tham khảo từ nguồn tại Hoangsatruongsavn.blogspot.com
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Xin mời bạn cho một nhận xét để động viên người viết.
(Nhận xét của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng)