Hiển thị các bài đăng có nhãn BÌNH LUẬN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn BÌNH LUẬN. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 6 tháng 6, 2017

Jack Ma dặn con trai 9 điều không được làm để thành tỷ phú,điều thứ 6,100% đều mắc phải,đặc biệt là Việt Nam

Trong 9 việc Jack Ma dạy con phải nhớ, hẳn nhiều người trong chúng ta sẽ tìm thấy được sự giác ngộ cho chính bản thân mình
Bức thư Jack Ma gửi con trai đã khiến hàng triệu người Trung Quốc cảm động. Còn chúng ta sẽ cảm nhận được gì sau khi đọc bức thư được truyền tải nguyên văn dưới đây?
Con trai của ta: Ta viết “bản ghi nhớ” này dựa trên 3 nguyên tắc.
– Đời người phúc họa vô thường, chẳng ai có thể biết bản thân có thể sống được bao lâu, có một số việc nên nói sớm ra sẽ tốt hơn.
– Ta là cha của con, nếu ta không nói với con, sẽ chẳng có người nào khác nói với con.
– Những ghi chép trong bản ghi nhớ này, đều là những kinh nghiệm mà ta đã phải trải qua thất bại đau khổ mới có được. Nó có thể giúp con trưởng thành không cần phải mất quá nhiều thời gian để đi đường vòng.
Jack Ma – người sáng lập Tập đoàn Alibaba của Trung Quốc.
Dưới đây là những điều mà sống trên đời, con phải nhớ cho thật kỹ:
1. Những người không tốt với con, đừng để ý quá nhiều đến người ta. Trong suốt cuộc đời con, không có ai có nghĩa vụ phải tốt với con, trừ ta và mẹ con. Với những người đối xử tốt với con, nhất định phải trân trọng, cảm ơn.
2. Không ai là không thể thay thế, không có thứ gì là bắt buộc phải có trong tay. Nhìn thấu điều này, sau này cho dù con có mất đi tất cả những thứ con yêu thích trên thế gian, con cũng sẽ hiểu rằng, chuyện đó chẳng có gì to tát!
3. Sinh mệnh rất ngắn ngủi. Hôm nay có thể con vẫn đang lãng phí sinh mệnh nhưng ngày mai, con có thể đã thấy thứ trân quý đó rời xa con.
Vì thế, càng sớm trân trọng sinh mệnh của mình, con sẽ được hưởng thụ những ngày tháng sống trên đời càng nhiều. So với kỳ vọng được sống lâu, sống thọ, thà rằng con hãy sớm hưởng thụ một cuộc sống thực sự trọn vẹn.
4. Tình yêu chỉ là một dạng cảm giác và cảm giác này, theo thời gian, tâm trạng sẽ thay đổi. Nếu người mà con cho là mình yêu nhất rời xa con, hãy nhẫn nại chờ đợi một chút, để trái tim dần dần lắng xuống, thời gian sẽ làm vơi nỗi đau trong lòng con.
Đừng quá vấn vương đến cái đẹp của ái tình, cũng đừng làm quá những đau khổ khi thất tình.
5. Mặc dù nhiều người không được học hành nhiều song vẫn thành công nhưng điều đó không có nghĩa là con không cần dụng công học hành mà cũng có thể thành công.
Những kiến thức con học được chính là thứ vũ khí mà con có. Con người có thể tay trắng lập nghiệp nhưng không thể không có vũ khí mà lập nghiệp, nhớ cho kỹ!
6. Ta đã mua xổ số trong suốt 26 năm nhưng đến giải 3 cũng chưa bao giờ trúng. Điều này chứng minh một điều rằng, con người muốn thành công, nhất định phải cần đến sự nỗ lực hết mình. Trên đời này không có gì là miễn phí.
7. Ta không yêu cầu con phải phụng dưỡng, nuôi ta nửa đời còn lại. Đồng nghĩa với việc đó, ta cũng không nuôi con nửa đời còn lại.
Khi con trưởng thành đến mức có thể tự lập, trách nhiệm của ta đã kết thúc. Từ nay về sau cho dù là con ngồi xe buýt hay ngồi trên xe Mercedes, ăn sơn hào hải vị hay cơm canh đạm bạc, con đều phải tự lo liệu.
8. Con có thể yêu cầu bản thân phải giữ chữ tín nhưng không thể yêu cầu người khác phải giữ chữ tín. Con có thể yêu cầu bản thân phải đối tốt với người khác nhưng con không thể kỳ vọng người ta tốt với con.
Con đối xử với người khác thế nào không có nghĩa là người ta sẽ đối xử lại với con như vậy. Nếu con không nhìn thấu điểm này, nó sẽ chỉ đem đến cho con những phiền não không cần thiết.
9. Người thân là duyên phận chỉ có 1 lần. Bất luận kiếp này ta và con được ở cạnh nhau bao lâu, con nhất định phải trân trọng thời khắc chúng ta bên nhau. Kiếp sau, cho dù chúng ta có yêu mến nhau hay không, chưa chắc chúng ta đã có thể gặp lại.

9 lời khuyên để đời của Tỷ phú Jack Ma

Tỷ phú Jack Ma, nhà sáng lập và là nguyên Giám đốc điều hành Alibaba Group. Ông cũng là một trong những doanh nhân công nghệ thành công nhất của Trung Quốc, cũng như thị trường châu Á. Sau kết quả IPO thành công trên thị trường chứng khoán New York,  ông trở thành tỷ phú giàu nhất Trung Quốc và đứng thứ 70 của thế giới.

Ông đã chia sẻ những kinh nghiệm sâu sắc nhất của mình về cuộc sống và nghiệp doanh nhân.

Tôi luôn tin vào 2 nguyên tắc:
  • Thái độ của bạn sẽ quan trọng hơn khả năng của bạn.
  • Tương tự, sự quyết đoán của bạn cũng quan trọng hơn khả năng của bạn.
Bạn không thể thống nhất suy nghĩ của tất cả mọi người, nhưng bạn có thể thống nhất mọi người thông qua một mục tiêu chung.
1. Đừng bao giờ tin rằng bạn có thể thống nhất suy nghĩ của tất cả mọi người. Đó là chuyện viễn vông.
2. Sẽ có khoảng 30% số người không bao giờ tin bạn. Thay vì để đồng nghiệp và nhân viên làm việc cho bạn, hãy để họ làm việc vì một mục tiêu chung.
3. Sẽ dễ dàng để thống nhất công ty dưới một mục tiêu chung hơn là thống nhất công ty dưới một người cụ thể nào đấy.
Điều gì làm nên một nhà lãnh đạo thật sự?
1. Nhà lãnh đạo phải là một người nhìn xa trông rộng, và anh ta phải có cái nhìn sâu sắc hơn một người nhân viên.
2. Nhà lãnh đạo nên có sự bền bĩ, ngoan cường, và anh ta có thể chịu đựng áp lực mà một nhân viên không thể chịu được.
3. Nhà lãnh đạo nên có một sự nhẫn nại kiên định và khả năng đương đầu và đối diện thất bại. Do đó, những phẩm chất của một nhà lãnh đạo kiệt xuất là tầm nhìn, sự nhẫn nại, và năng lực của anh ta.
Đừng dính líu vào chính trị
Theo lẽ thường, tiền và quyền lực chính trị sẽ không bao giờ đi chung. Khi bạn làm chính trị, đừng bao giờ nghĩ đến tiền bạc. Ngược lại, khi bạn làm kinh doanh, đừng nghĩ đến dính líu vào chính trị. Khi tiền bạc đụng đến chính trị, nó giống như bạn đụng đến một quả mìn nổ chậm, nó chỉ chực chờ bùng nổ.
4 câu hỏi chính yếu mà thế hệ trẻ nên tự hỏi
1. Thất bại là gì? Bỏ cuộc là sự thất bại lớn nhất.
2. Ứng biến là gì? Chỉ khi bạn trải qua những gian khó cùng cực, những thất vọng vô bờ bến, khi đấy bạn mới hiểu cái gọi là ứng biến.
3. Nghĩa vụ của bạn là gì: Là cần cù, chăm chỉ, và tham vọng hơn tất cả.
4. Chỉ những đứa ngốc mới thích dùng miệng để thể hiện. Người đàn ông thông minh sẽ sử dụng trí não, và người uyên bác sẽ thể hiện bằng trái tim của anh ấy.
Chúng ta sinh ra để được sống và thưởng thức cuộc sống này
Tôi luôn tự nói với bản thân tôi rằng chúng ta sinh ra không phải để cắm cúi làm việc, mà sinh ra để thưởng thức cuộc sống. Chúng ta tạo ra những điều tốt đẹp hơn cho cuộc sống. Nếu bạn muốn giành toàn bộ cuộc đời bạn chỉ để làm việc, sẽ có ngày bạn phải hối tiếc. Không cần biết bạn thành công đến đâu trên con đường sự nghiệp, bạn phải luôn nhớ rằng chúng ta có mặt ở đây là để tận hưởng cuộc sống.
Sự cạnh tranh và tranh đấu lẫn nhau
1. Những người cạnh tranh gay gắt lẫn nhau là những người ngốc nghếch.
2. Nếu bạn xem mọi người là kẻ thù, thì những người xung quanh bạn sẽ trở thành kẻ thù của bạn.
3. Khi bạn cạnh tranh bình đẳng với những đối thủ khác, đừng để xuất hiện sự ghen tức. Sự ghen tức nhỏ nhoi sẽ chỉ làm hại bạn về sau.
4. Cạnh tranh cũng giống như chơi một ván cờ. Khi chúng ta thua, chúng ta có thể chơi lại một nước cờ khác. Cả hai người chơi đừng nên chiến đấu triệt hạ lẫn nhau.
5. Một người làm kinh doanh hay một doanh nhân chân chính sẽ không có kẻ thù. Chỉ khi anh ta hiểu được điều này, anh ta mới nhận ra cơ hội luôn luôn rộng mở với tất cả mọi người.
Đừng để phàn nàn trở thành thói quen
Có thể chấp nhận được nếu thỉnh thoảng bạn phàn nàn, rên rỉ về những khó khăn. Tuy nhiên, nếu nó trở thành thói quen, nó sẽ giống như khi bạn uống rượu. Bạn càng cố gắng uống thì bạn sẽ càng khát. Trên con đường đến với thành công, bạn sẽ nhận ra người thành công sẽ không phải là người thường phàn nàn.
Thế giới này sẽ không thể nhớ những gì bạn nói, nhưng những gì bạn làm được chắc chắn sẽ không bị lãng quên.
“Nhà lãnh đạo sẽ không nên so sánh kĩ năng chuyên môn của anh ta với nhân viên của anh ta. Nhân viên của bạn phải luôn có kĩ năng chuyên môn tốt hơn bạn. Nếu không được như vậy, nghĩa là bạn đã thuê nhầm người” – Jack Ma.
Nguồn Sưu tầm

Thứ Hai, 7 tháng 3, 2016

Cuộc chiến tranh 17-2-1979: Ngưỡng can thiệp quân sự của Liên Xô

Trong cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam năm 1979, Liên Xô không tấn công quân sự vào Trung Quốc. Điều đó giải thích ra sao?
Xem thêm:
>>  Cuộc chiến 17-2-1979: Mặt trận Biển Đông trong đối đầu căng thẳng...
Trước cuộc tấn công của Trung Quốc vào toàn tuyến biên giới phía bắc Việt Nam, Liên Xô cảnh cáo “Liên bang Xô Viết sẽ thực hiện những điều khoản đã ký kết Trong Hiệp định hợp tác, đoàn kết hữu nghị và tương trợ lẫn nhau (trong cả lĩnh vực quân sự) đã được ký với Việt Nam”.
Để biểu thị sự ủng hộ đối với Việt Nam và răn đe Trung Quốc, một cuộc biểu dương lực lượng khổng lồ dưới dạng một cuộc tập trận Hiệp đồng quân binh chủng lớn nhất trong lịch sử, đã được Liên Xô tổ chức vào đầu tháng 3-1979.
Cuộc động binh lớn nhất trong lịch sử Liên bang Xô viết
Bình luận về cuộc tập trận này, chuyên gia Aleksei Lensov cho biết, đó là cuộc biểu dương lực lượng mạnh mẽ nhất ở phía nam Liên Xô (tức phía Bắc Trung Quốc) trong vòng hơn hai trăm năm, với lực lượng được huy động lên đến 600.000 người, thuộc 6 quân khu của Liên Xô.
Trong giai đoạn từ ngày 12 đến 26-3, với mục đích tạo áp lực quân sự lên Trung Quốc, theo quyết định của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô, quân đội nước này đã tiến hành cuộc diễn tập hiệp đồng quân binh chủng và diễn tập hải quân có sử dụng đạn thật.
Cuộc tập trận được triển khai trên tất cả các quân khu vùng biên giới phía Đông, trên lãnh thổ Mông Cổ và trên biển Thái Bình Dương, huy động lực lượng của 29 sư đoàn bộ binh cơ giới, với số quân lên đến 250.000 quân nhân, 2.600 xe tăng, 900 máy bay và 80 chiến hạm.
Cuộc diễn tập bắt đầu bằng lệnh động viên và chuyển các đơn vị vào tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao nhất. Quân đội Liên Xô đã động viên 52.000 quân nhân dự bị, huy động hơn 5.000 xe máy của nông nghiệp sang phục vụ yêu cầu sẵn sàng chiến đấu.
Liên Xô luôn sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam (Ảnh tư liệu cuộc tập trận của Liên Xô mang tên “Phương Tây 81”, năm 1981)
Các trung đoàn máy bay chiến đấu từ lãnh thổ của Ukraine và Belarus cũng được điều chuyển đến miền đông Liên Xô, trong đó có một sư đoàn được triển khai ở Mông Cổ, trên một sân bay trọng yếu, chỉ cách Bắc Kinh 1,5 giờ bay.
Các cuộc chuyển quân trên của Không quân Xô Viết bao gồm toàn bộ đội hình máy bay chiến đấu, với các phi công được huấn luyện tốt nhất, cùng với tất cả các đơn vị và phân đội bảo dưỡng kỹ thuật trên không và mặt đất.
Trong tiến trình diễn tập, có những khoảng thời gian trong không trung có tới 10 trung đoàn không quân tuyến 1 (đội hình chiến đấu) hoạt động. Các kíp bay đã bay tổng cộng 5.000 giờ, đã sử dụng tới 1.000 quả bom và tên lửa trong diễn tập bắn đạn thật.
Những đợt diễn tập lớn nhất được thực hiện tại Mông Cổ, với sự tham gia của 6 sư đoàn Bộ binh cơ giới và tăng-thiết giáp, 3 trong số các đơn vị được điều động từ Siberia và Zabaikalia.
Ngoài ra, trên lãnh thổ Mông Cổ tham gia diễn tập có 3 sư đoàn không quân chiến trường, 2 lữ đoàn không quân độc lập, các đơn vị và phân đội đặc chủng tăng cường.
Cũng trong giai đoạn đó, Liên Xô cũng đồng thời tiến hành các hoạt động diễn tập thực binh của các lực lượng trên vùng Viễn Đông và Đông Kazakhstan (giáp giới Trung Quốc), với các đơn vị binh chủng hợp thành cấp sư đoàn trở lên và các đơn vị không quân, phối hợp với lực lượng Biên phòng.
Tại các vùng có đường biên giới với Trung Quốc, lực lượng Xô Viết đã diễn tập các phương án tổ chức phòng ngự, đánh trả đội hình tiến công của đối phương, phản kích và chuyển sang phản công. Các đơn vị tên lửa chiến thuật cũng được đặt trong trạng thái báo động chiến đấu.
  Ngoài ra, tại biển Đông và biển Hoa Đông, gần 50 chiến hạm của Hạm đội Thái Bình Dương, trong số đó có 6 tàu ngầm đã trực chiến sẵn sàng chiến đấu và tiến hành tập trận tiêu diệt hải quân đối phương. Tại vùng Primorie (ven biển Viễn Đông) đã diễn ra các cuộc đổ bộ của hải quân đánh bộ Liên Xô.


Những ý đồ tác chiến thật sự nghiêm túc được ông Eugene, nguyên Đại đội trưởng Đại đội 8 - Trung đoàn 390, thuộc sư đoàn hải quân đánh bộ số 55 miêu tả lại: Vào tháng 2-1979, trung đoàn đã được đặt trong trạng thái có chiến tranh.


Cả đội hình sư đoàn đã thực hiện nhiệm vụ diễn tập chiến thuật trên biên giới với Trung Quốc trong đó có nội dung đổ bộ lên đất liền từ hướng biển, tiến hành các cuộc diễn tập đổ bộ tấn công cấp tiểu đoàn, có sử dụng đạn thật.
Để phục vụ cuộc tập trận này, Liên Xô đã huy động một khối lượng bảo đảm khổng lồ. Chỉ tính lượng dầu tiêu hao trong thời gian thực hiện các hoạt động diễn tập và giúp đỡ Việt nam, Bộ quốc phòng Liên Xô lúc đó đã phải phục hồi lại dự trữ trong vòng hai năm.


 Liên Xô sẵn sàng can thiệp quân sự


Trong hồi ký của các cựu quân nhân Liên Xô cho biết, Liên Xô hoàn toàn có khả năng sẽ can thiệp quân sự khi cần thiết và khi đó Trung Quốc đã được cảnh báo trước một điều đã rõ ràng, nếu quân đội của họ không rút khỏi Việt Nam, họ sẽ phải chiến đấu trên hai mặt trận.

Trong trường hợp này, những hành động quân sự nào Liên Xô sẽ thực hiện trong thời điểm ban đầu? Giới chuyên gia quân sự cho rằng, có quá nhiều sự lựa chọn hiệu quả đối với Liên Xô trong các hành động tấn công.
Viễn cảnh đáng lo ngại nhất là những hành động quân sự mà Liên Xô có thể triển khai trên chiều dài 4.500 km đường biên giới Xô - Trung, nơi có 44 sư đoàn sẵn sàng chiến đấu đang đóng quân.
Quân đội Liên Xô với các phương tiện đổ bộ tầm xa hoặc đổ bộ đường không có thể nhanh chóng đổ quân xuống vùng đồng bằng tuyết phủ của Tân Cương, có khả năng tấn công vào khu vực Mãn Châu - trung tâm công nghiệp nặng của Trung Quốc.
Trường hợp xấu nhất là kịch bản "ngày tận thế", theo cách gọi của các chuyên gia. Đó là đòn tấn công nhằm vào các cơ sở hạt nhân của Trung Quốc ở vùng hồ muối Lop Nor (hay còn gọi là La Bố Bạc) - nằm giữa sa mạc Taklamakan và sa mạc Kuruktag, thuộc phía Đông khu tự trị Duy Ngô Nhĩ - Tân Cương.
Mục tiêu này dường như thích hợp hơn cả trong sự đánh giá của quân đội Liên Xô bởi sự hủy diệt lớn, sức mạnh răn đe cao, tấn công phủ đầu trong tầm với của nhiều loại tên lửa Liên Xô.
Vùng hồ muối Lop Nor (hay còn gọi là La Bố Bạc) - vùng tập trung các cơ sở hạt nhân của Trung Quốc
Khi đó, Bộ Chính Trị Trung Quốc cũng đứng trước rất nhiều câu hỏi sinh tử:
Một là, liệu Liên Xô có phản ứng bằng cách tấn công từ phía bắc khiến quân đội Trung Quốc phải chiến đấu trên hai mặt trận?
Hai là liệu Liên Xô có nhân cơ hội để trục lợi từ tình hình căng thẳng Việt Nam-Trung Quốc hay không? Và phản ứng của thế giới, đặc biệt là của Mỹ trước sự gia tăng căng thẳng Trung-Xô sẽ ra sao?
Ba là, liệu leo thang chiến tranh với Việt Nam, dẫn đến sự can thiệp của Liên Xô sẽ gây những khó khăn thế nào đến chương trình hiện đại hóa nền kinh tế trong chiến lược “Cải cách mở cửa” của nước này?
Trong đó, mối lo lắng lớn nhất của nhà cầm quyền Bắc Kinh là phản ứng quân sự khó lường của Liên Xô.
Theo các phân tích tình báo của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Moscow có thể sẽ đưa ra 3 phương án quân sự nhằm đáp trả cuộc xâm lăng của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Kịch bản thứ nhất là một cuộc đột kích quân sự lớn bao gồm cả tấn công trực diện vào thủ đô Bắc Kinh. Kịch bản này khó có thể xảy ra, cùng lắm là một cuộc tấn công quy mô lên hàng loạt tỉnh phía bắc Trung Quốc, giống như chiến dịch Bắc Kinh đang tiến hành ở Việt Nam.
Thứ 2 là xúi giục các phần tử dân tộc thiểu số có vũ trang đang lưu vong ở Liên Xô quay về tấn công vào các tiền đồn Trung Quốc ở Tân Cương (Xinjiang) và Nội Mông (Inner Mongolia). Hoạt động này có thể sẽ gây bất ổn kéo dài đối với khu vực biên giới Trung Quốc.
Kịch bản này hoàn toàn có thể xảy ra nhưng trong trường hợp Bắc Kinh có ý định chiếm giữ lâu dài các khu vực mà quân đội nước này mới cướp đoạt được của Việt Nam, bởi nó không thể tiến hành ngay lập tức được.
Phương án thứ 3 sử dụng hàng loạt cuộc giao tranh nhỏ gây ra sự căng thẳng dọc tuyến biên giới giữa hai nước, khiến Trung Quốc liên tục phải đối phó với tình hình căng thẳng trên toàn tuyến biên giới. Đây là phương án dễ xảy ra nhất bởi Liên Xô đã tập trung một lượng binh lực khổng lồ ở khu vực giáp biên.
Ngoài ra, cũng có thể là Liên Xô sẽ kết hợp tất cả các phương án này khiến Trung Quốc đứng trước những đòn tấn công quân sự rất nguy hiểm, không chỉ trong thời gian trước mắt mà cả lâu dài về sau.
Do đó, mặc dù cũng đã điều chuyển binh lực rất lớn lên biên giới Xô-Trung nhưng trước cuộc tập trận rầm rộ của quân đội Liên Xô, Bắc Kinh hiểu rằng, nếu mở rộng chiến tranh ở Việt Nam, rất có thể họ sẽ phải nhận một đòn tấn công phủ đầu tàn khốc.
Thấy được ý định nghiêm túc của quân đội Liên Xô trong bối cảnh chủ lực ta đã lên biên giới và hiểu rằng không thể giành chiến thắng nếu không leo thang chiến tranh, nhà cầm quyền Bắc Kinh tuyên bố đã đạt được mục đích “dạy cho Việt Nam một bài học” và rút quân vào ngày 5-3-1979.

Liên Xô có tấn công Trung Quốc hay không? Và đâu là “mức ngưỡng” can thiệp?
Vào giai đoạn đó, một câu hỏi rất lớn được giới học giả quốc tế đặt ra là thực sự Liên Xô có ý định can dự vào cuộc chiến tranh này hay không? Và nếu có thì đâu là mức “ngưỡng” của cuộc chiến tranh, mà Liên Xô sẽ buộc phải thực hiện đòn tấn công quân sự vào Trung Quốc?

Tờ thời báo “The Times” vào tháng 3-1979 đã dẫn phân tích của các chuyên gia nhận định, nếu quân đội Việt Nam đủ khả năng kháng cự và vẫn giữ vững mặt trận thì Liên Xô sẽ chỉ tiến hành cuộc chiến tranh trên mặt trận ngoại giao, tăng cường viện trợ cho Việt Nam và chuẩn bị tâm thế “sẵn sàng can thiệp”.
Trước hết phải nói rằng, đúng như nhận định của tờ báo Anh “The Times”, ý định bảo vệ Việt Nam của Liên Xô là hết sức nghiêm túc nhưng nếu cuộc chiến tranh xâm lược vẫn nằm trong phạm vi đối phó của Việt Nam thì Liên Xô sẽ không can thiệp quân sự.
Tờ báo này cho rằng, nếu nước láng giềng tiếp tục leo thang chiến tranh, tấn công xuống đồng bằng, ví dụ như uy hiếp Hà Nội và Hải Phòng, hoặc đồn trú lâu dài trên những vùng đất chiếm được, thì để thể hiện sự kiên quyết và sức mạnh trước toàn thế giới, giữ lời cam kết với đồng minh, Liên Xô sẽ tham gia giải quyết xung đột.
Tuy nhiên, đó chỉ là những vấn đề mang tính tình huống phát sinh trong chiến tranh, còn trên thực tế, có nhiều vấn đề ở trên tầm đại cục, có ảnh hưởng lớn hơn đối với cả Việt Nam và trên tầm thế giới mà chúng ta phải suy xét đến.
Thứ nhất: Mặc dù không có một tuyên bố chính thức nào đưa ra, nhưng vào thời điểm Trung Quốc nổ súng tấn công, Việt Nam sẽ không nhờ Liên Xô can thiệp quân sự, bởi trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, quân dân Việt Nam chưa bao giờ cầu viện bất cứ nước nào đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Truyền thống độc lập, tự cường là bản chất tốt đẹp, là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, đã giúp dân tộc ta tự đứng vững trước hàng ngàn năm xâm lược và âm mưu đồng hóa của các thế lực bành trướng phương Bắc và trong cả lịch sử hiện đại.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cũng đã có nhiều lời đề nghị cử quân sang giúp đỡ nhưng Việt Nam đều từ chối, mặc dù chúng ta phải liên tiếp tiến hành 2 cuộc chiến tranh khốc liệt với 2 đế quốc mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ là Pháp và Mỹ.
Không thể có độc lập, tự chủ đúng nghĩa của nó trên sự vay mượn máu của dân tộc khác. Tinh thần tự tôn của Việt Nam là một yếu tố quan trọng khiến Liên Xô không can thiệp quân sự, nếu cuộc chiến vẫn nằm trong phạm vi kiểm soát được.

Nói như thế không phải là Việt Nam không cần sự giúp đỡ của Liên Xô mà chúng ta nên hiểu với ý nghĩa rằng, hành động đó chỉ đến khi Việt Nam không còn khả năng chống trả được, khi Trung Quốc vượt quá xa phạm vi một cuộc chiến “phản kích tự vệ” mà họ tuyên bố.
Do đó, nếu Trung Quốc không sử dụng đến các vũ khí có khả năng răn đe hạt nhân như không quân ném bom và lực lượng Pháo binh 2 (tên lửa đạn đạo), hoặc lực lượng hải quân Mỹ-Trung phối hợp tấn công từ hướng biển thì Việt Nam sẽ tự mình chống trả quân xâm lược để giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Thứ 2: Vào thời điểm đó, nếu Trung Quốc không leo thang xâm lược đến cấp độ cao hơn thì Liên Xô cũng sẽ không can thiệp quân sự, bởi đó chỉ là sự lựa chọn bắt buộc cuối cùng, bởi dùng đến chiến tranh để giải quyết chiến tranh bao giờ cũng là một phương án tồi tệ nhất.

Thực tế chúng ta cũng thấy, ngược với bản chất hung hăng, hiếu chiến của chủ nghĩa bá quyền, các dân tộc yêu chuộng hòa bình sẽ chỉ tiến hành chiến tranh trong trường hợp không còn biện pháp nào khác, nhất là đối với các cường quốc, bởi những hành động quân sự của họ đều có ảnh hưởng rất lớn đến cục diện chính trị thế giới.
Mỗi một sự can thiệp quân sự của các cường quốc vào một khu vực nào đó trên thế giới cũng sẽ dẫn đến những biến động địa-chính trị rất lớn trên toàn cầu. bởi vậy, vào thời điểm năm 1979, sự can thiệp quân sự của Liên Xô cũng sẽ chỉ được đưa ra, nếu không còn biện pháp nào khác.
Hơn nữa, mặc dù rất đau lòng trước tình cảnh nước bạn lâm vào cảnh chiến tranh tàn phá và rất muốn giúp Việt Nam đánh quân xâm lược Trung Quốc, nhưng Liên Xô cũng rất tin tưởng vào khả năng của quân đội Việt Nam trong đối phó với một cuộc chiến tranh thông thường.
Nước bạn sẽ chỉ “ra tay” nếu cuộc chiến vượt tầm khả năng của Việt Nam, cần phải có những biện pháp quân sự mạnh mẽ để răn đe cái đầu nóng quá mức của quân xâm lược. Còn nếu không, Liên Xô sẽ dừng lại ở mức độ ủng hộ, viện trợ, cố vấn và  sẵn sàng ra tay nếu cần thiết.
Do đó, kể cả trong trường hợp Bắc Kinh không rút quân sau tuyên bố ngày 5-3-1979 hoặc âm mưu đánh xuống đồng bằng thì Liên Xô cũng sẽ không can thiệp, bởi lúc đó chủ lực của ta đã bắt đầu tham chiến, khiến Trung Quốc hoàn toàn không có “cửa” thắng trong cuộc chiến tranh xâm lược này.

Bởi vậy, những luận điểm phê phán tính thực chất của Hiệp định hợp tác hữu nghị Việt-Xô chỉ là sự ngụy biện, nhằm li gián tình hữu nghị giữa 2 nước anh em, hoặc chưa hiểu hết về truyền thống tự cường của con người Việt Nam mới cho rằng, Liên Xô sẽ nổ súng ngay sau khi Trung Quốc xâm lược nước ta.
Tuy nhiên, về cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc năm 1979, rất nhiều bạn đã thắc mắc rằng, ngay từ đầu Bắc Kinh có ý định đánh xuống Hà Nội hay không? Hay ở miền Bắc lúc đó vẫn còn Quân đoàn 1, tại sao lại không tham chiến? Hoặc thắc mắc là vì sao Trung Quốc không huy động đến những lực lượng có tính răn đe mạnh như không quân hay tên lửa; còn Việt Nam cũng không dùng đến lực lượng không quân lúc đó đang rất mạnh?
Tất cả những điều này chúng ta sẽ tìm hiểu trong kỳ sau.
Nguồn Baodatviet

Cuộc chiến 17-2-1979: Mặt trận Biển Đông trong đối đầu căng thẳng...

Năm 1979, ngoài sự giúp đỡ về ngoại giao, cố vấn, viện trợ, Liên Xô đã điều 30 chiến hạm đến Biển Đông, ngăn chặn hải quân Mỹ và Trung Quốc.
Ngoài ra, một số chiến hạm của Hạm đội Thái Bình Dương cũng được triển khai trong trạng thái trực sẵn sàng chiến đấu tại các khu vực của biển Hoa Đông, sẵn sàng tiếp viện, đồng thời chuẩn bị cho những tình huống xấu nhất có thể xảy ra.
Cụm chiến hạm Xô viết có mặt trên Vịnh Bắc bộ đến tận tháng 4-1979. Những hoạt động sẵn sàng chiến đấu của Hạm đội Thái Bình dương đã gây một sức ép nặng nề, buộc các chiến hạm của Hạm đội Nam Hải không dám tham gia cuộc tấn công, mặc dù có tới gần 300 tàu chiến các loại.
Song song với đối phó với tàu chiến Trung Quốc, các chiến hạm Liên Xô đã triển khai đối phó với các tàu chiến Mỹ. Tính đến ngày 25-2-1979, một số lượng lớn các tàu Mỹ đã neo đậu thành chuỗi ngoài khơi bờ biển Việt Nam, mà theo Washington tuyên bố lúc bấy giờ là để “theo dõi tình hình chiến sự”.
Để ngăn chặn các chiến hạm Mỹ tiếp cận khu vực tác chiến, các tàu ngầm diesel-điện của hạm đội Thái Bình Dương-Nga đã lập một phòng tuyến đối đầu. Một số các tàu ngầm cơ động ở độ sâu tác chiến, một số tàu ngầm đã nổi hẳn lên mặt nước, để chiến hạm của hải quân Mỹ trông thấy.
Người Mỹ đã không dám vượt qua tuyến ngăn chặn của tàu ngầm Liên Xô. Vào 06-3 - một ngày sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân, Cụm AUG do tàu sân bay Constellation dẫn đầu đã rời Biển Đông, hành trình về Vịnh Aden, nơi đang xảy ra xung đột dữ dội giữa miền Bắc và Nam Yemen.
Tàu vận tải đổ bộ của Liên Xô vận chuyển trang thiết bị quân sự lên quân cảng Cam Ranh

Xây dựng hành lang vận tải trên biển sang Việt Nam
Ngoài ra, hải quân Liên Xô đã lập một hàng lang vận tải khẩn cấp từ nước mình sang Việt Nam. Hải quân Liên Xô đã trưng dụng 3 quân cảng Vladivostok, Nakhodka, Odessa để tập trung hàng hóa, khẩn trương vận tải hàng viện trợ quân sự bằng đường biển đến Đông Nam Á.
Một số lượng lớn các tàu vận tải của hải quân Liên Xô đảm bảo việc chuyển hàng hóa thông thường và vũ khí, trang bị cho Việt Nam. Chỉ tính riêng ở Hải Phòng lúc đó đã có 20 tàu cả dân sự lẫn quân sự chở hàng và chở dầu của Liên Xô vào cảng bốc dỡ.
Thậm chí là Liên Xô còn điều động một đội bốc xếp chuyên nghiệp lớn từ các Cảng Liên Xô Vladivostok, Nakhodka và Vanina Korsakov, do ông G.I.Pikusa, Trưởng đội bốc xếp của cảng Nakhodka làm trưởng nhóm, sang Việt Nam làm nhiệm vụ bốc dỡ ở cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn.
Đội được cấp tốc điều chuyển đến đến Việt Nam trên tàu vận tải “Olga Androvskaya”. Trong thời gian thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả ở Việt Nam, đội bốc dỡ này đã triển khai xuống hàng trên 26 tàu tải trọng lớn với tổng cộng hơn 100 nghìn tấn hàng hóa.
Vì lòng dũng cảm và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, được thể hiện xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp đỡ Việt Nam chống quân Trung Quốc xâm lược, 36 quân nhân thuộc hạm đội Thái Bình Dương đã được trao những phần thưởng cấp Nhà nước của Liên bang Xô viết.
Như chúng ta đã thấy, Liên Xô đã làm tất cả những điều cần thiết để ủng hộ tinh thần và vật chất để giúp đỡ Việt Nam chống lại sức tấn công dữ dội của quân đội Trung Quốc. Sự giúp đỡ của nước bạn là vô cùng quý báu, giúp quân dân Việt Nam đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược trên quy mô lớn.
Tuy nhiên, một thắc mắc rất lớn vào thời điểm đó và cả hiện nay là tại sao Liên Xô không tung quân giúp đỡ Việt Nam và vì sao Trung Quốc không sử dụng đến các lực lượng không quân và tên lửa. Điều này chúng ta sẽ tìm hiểu trong các kỳ sau.
Xem thêm
>> Cuộc chiến tranh 17-2-1979: Ngưỡng can thiệp quân sự của Liên Xô
Nguồn Baodatviet

Thứ Năm, 8 tháng 1, 2015

Argentina - bài học đắng cay về chủ quyền biển đảo

Mua loại vũ khí gì mới chỉ là phần ngọn, mua của ai và cách mua như thế nào mới là phần gốc của vấn đề.

Cuộc hải chiến trên quần đảo Falkland (Malvinas) giữa Vương quốc Anh và Argentina được coi như là một trận hải chiến lớn nhất từ sau thế chiến lần 2 đến nay.

Trận hải chiến đã để lại cho giới quân sự những bài học bổ ích trong nghệ thuật tác chiến hiện đại trên biển…, nhưng với Việt Nam, kinh nghiệm từ Argentina, không những thế, còn lớn hơn, đó là: Mua sắm vũ khí ra sao và như thế nào trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Tự chủ được tên lửa diệt hạm Kh-35 là tham vọng trong tầm tay của Việt Nam từ năm 2013
Hơn 30 năm trôi qua, kể từ khi bắt đầu trận hải chiến, giờ đây, chúng ta không quan tâm đến diễn biến, chiến thuật tác chiến của Anh hay của Argentina làm gì nữa. Với Việt Nam, điều cần nhớ là: trong trận hải chiến đó, Argentina đã bị thất bại cay đắng. Nói là “cay đắng” bởi vì hầu như các chuyên gia quân sự, giới quan sát trên thế giới, đều cho rằng, nếu như có đủ tên lửa Exocet thì hải quân Hoàng gia Anh sẽ ôm hận.

Tên lửa Exocet là của Pháp sản xuất bán cho Argentina đã phát huy sức mạnh khiến Hải quân Anh mất tinh thần. Khi cuộc chiến đang vào giai đoạn quyết định thì Anh chặn Pháp không bán tên lửa Exocet cho Argentina dù qua trung gian Peru. Pháp là đồng minh với Anh, Mỹ mà không nghe theo là chuyện lạ.

Một câu hỏi đặt ra là, điều gì sẽ xảy ra nếu tên lửa diệt hạm đó không phải mua của Pháp mà của Nga? Quả thật, chỉ sau khi hết vụ này đến vụ khác, nước Anh đều ra tay ngăn cản Argentina mua vũ khí phục vụ cho tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Falkland, như máy bay hay tên lửa diệt hạm…thì Argentina mới nhận thức ra được vấn đề bằng cách, mua vũ khí Nga qua vụ máy bay SU-24.

Và chắc chắn, nếu Argentina cần SU-30, tên lửa diệt hạm hiện đại…thì Nga cũng sẵn sàng bán ngay, để dạy cho nước Anh một bài học về cảm giác khi bị kẻ nào đó nhúng mũi vào chuyện người khác.

Vụ Pháp bán tàu Mistral cho Nga cũng vậy thôi, khi bị Mỹ và NATO ép thì Pháp cũng sẵn sàng “bất tín” một lần nữa. Hành động bạc nhược của Pháp đã khiến Ấn Độ nghi ngại trong thương vụ mua 126 máy bay Rafale, bởi không chắc rằng, Pháp sẽ không bội tín dưới sức ép của Mỹ hay Trung Quốc sẽ khiến không quân Ấn Độ dang dở.

Như vậy, mua vũ khí là phải tính đến đối tượng tác chiến trực tiếp, trước mắt và lâu dài là ai, kẻ đó có liên quan gì đến người bán…Nếu như bất chấp điều này, thì khi chiến tranh xảy ra, kết quả vẫn là “cay đắng”.

Một số người vội mừng và đặt cược hết toàn bộ vào vũ khí Mỹ khi Mỹ bỏ cấm vận vũ khí là ngây thơ. Đã biết và hiểu rõ mối quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ như thế nào chưa?

Thông cáo Thượng Hải giữa Mỹ và Trung Quốc năm 1972, trong đó Trung Quốc thỏa thuận với Mỹ ngăn cản sức tấn công của ta vào miền Nam bằng cách ngừng viện trợ vũ khí, đạn dược, đồng thời cướp và ngăn chặn không cho vũ khí Liên Xô quá cảnh sang Việt Nam…chẳng phải là bài học giá trị sao.

Vậy vũ khí của quân đội Việt Nam mua của ai và mua như thế nào?

Rõ ràng là gần 90% vũ khí, Việt Nam mua sắm là từ Nga và hầu như các loại vũ khí Nga đều tạo nên xương sống cho sức mạnh của các quân binh chủng như Không quân, Hải quân…

Một vấn đề đặt ra là, liệu mối quan hệ của Nga-Trung có ảnh hưởng gì đến tranh chấp chủ quyền biển đảo Việt Nam-Trung Quốc nếu như xung đột quân sự nổ ra hay không?

Lúc đó, toàn bộ vũ khí Nga mà chúng ta đang sử dụng, liệu có xảy ra hiện tượng như Argentina, nghĩa là thiếu, cần bổ sung, nhưng mua, Nga không bán, khi hư hỏng thì không có đủ thiết bị thay thế, sửa chữa, thậm chí các tính năng kỹ, chiến thuật bị “bán” cho đối thủ…hay không?

Rất khó trả lời một cách chính xác cụ thể, chẳng hạn Nga không lên tiếng trong vụ giàn khoan Trung Quốc, nhưng tốc độ hoàn thành hợp đồng 6 chiếc tàu ngầm cho Việt Nam lại được Nga tăng tốc...thì đâu là chính, đâu là phụ?... 

Và… có vẻ như, Nga và Việt Nam (cả hai) đã thống nhất, lường tính trước những tình huống tương tự.

Thứ nhất, như chúng ta đã biết quan hệ Nga-Trung là đối tác, đối tượng (tác chiến) đan xen lẫn nhau. Về đối tác thì ai cũng biết vì được tuyên truyền rộng rãi, nhưng về đối tượng thì điều tế nhị, khó tuyên bố, tuy nhiên, hãy xem việc họ mua bán vũ khí với nhau là hiểu.

Nguyên tắc bất di, bất dịch là vũ khí sẽ được bán cho ai mà không dùng nó chống lại mình. Mới đây, Trung Quốc muốn mua máy bay ném bom chiến lược TU-22 của Nga nhưng Nga không bán dù đã bị Nga loại khỏi biên chế, bán sắt vụn…đã chứng minh về đối tượng, độ tin cậy…rất rõ ràng: Trung Quốc không phải là liên minh chiến đấu và cũng không phải là bạn thân thiết. Bởi vậy, Nga bán vũ khí cho Trung Quốc như thế nào, ra sao đều được tính toán kỹ, tiền không thể hơn an ninh quốc gia, như ví dụ trên.

Thứ hai, do quan hệ Nga-Việt là mối quan hệ truyền thống, có độ tin cậy cao, nên khâu chuyển giao công nghệ để Việt Nam tự chủ, đặc biệt là tự chủ về số lượng đạn, tên lửa cho ý đồ chiến dịch, chiến lược phòng thủ, đã được đặt ra trong mọi tình huống có thể khi Nga ở vào thế không thể.

Cảng Cam Ranh đã trở thành một căn cứ Hải quân quan trọng, lợi hại nhất của hạm đội tàu ngầm, tàu chiến mặt nước hiện đại bậc nhất của Việt Nam…luôn có dấu ấn của Nga, đặc biệt là trung tâm huấn luyện tàu ngầm hiện đại nhất thế giới. Việc thỏa thuận vấn đề tàu chiến Nga ra vào quân cảng Cam Ranh chứng tỏ Việt-Nga đã có một cơ sở, nền tảng quân sự rất dày và vững mới tạo ra một độ tin cậy như thế.

Thứ ba, đây là một điều hết sức đặc biệt lý thú, đó là mối quan hệ tay ba Việt-Nga-Ấn. Có một cấu trúc và cơ chế cho Lữ đoàn tàu ngầm Việt Nam đủ sức làm chủ cuộc chơi trên Biển Đông gắn liền với Việt-Nga-Ấn. Một lực lượng không quân đủ sức làm chủ vùng trời Biển Đông cũng gắn liền với Việt-Nga-Ấn. Có thể nói Ấn Độ là sự bổ sung hoàn hảo nhất mà Nga không có thể, là người bạn quý, chung tình mà Việt Nam có được.

Như vậy, khi mua những loại phương tiện vũ khí chủ yếu tạo nên sức mạnh trụ cột của quân đội như tàu ngầm, máy bay, tên lửa…thì nhất thiết phải làm chủ được phần gốc của công nghệ để cải tiến kỹ thuật, tạo ra sự độc đáo, đồng thời đảm bảo đủ vật tư thiết bị kỹ thuật thay thế, sửa chữa, tự chủ được đạn dược…Tất cả những yêu cầu đó, người bán phải là những quốc gia có độ tin cậy cao, càng ít có mối quan hệ phức tạp càng tốt.

Trong khi đó, đa dạng hóa nguồn mua sắm vũ khí, tức là lựa chọn mua những loại vũ khí có tính độc đáo trên thế giới, phù hợp với yêu cầu tác chiến hiện tại, nhằm bổ sung những khiếm khuyết và nắm bắt công nghệ khi được chuyển giao, để phát triển nền công nghiệp quốc phòng cho riêng mình, đặc biệt là đảm bảo an ninh, an toàn, bí mật nhờ loại trừ nguy cơ bị can thiệp từ bên ngoài vào vũ khí trong mọi tình huống, mọi hình thức.

Lựa chọn mua vũ khí để phù hợp với lối đánh, đủ sức đương đầu với các thác thức về an ninh chủ quyền mà không trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, khó khăn bao nhiêu, thì mua ai, mua ra sao để xây dựng nền công nghiệp quốc phòng phát triển, tiến tới tự chủ, làm chủ công nghệ, không bị nước ngoài can thiệp vào trong bất kỳ tình huống nào…càng khó khăn phức tạp hơn bội phần.

Argentina trong trận hải chiến Faikland là một bài học đắng cay không chỉ riêng ai.
Lê Ngọc Thống

Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2014

Rút giàn khoan, Trung Quốc trù tính những âm mưu mới

TQ đã rút giàn khoan Hải Dương 981 nhưng đằng sau nó còn ẩn chứa rất nhiều âm mưu mà VN cần xem xét và chuẩn bị biện pháp đối phó.
Kể từ khi Trung Quốc “lặng lẽ” đem giàn khoan khổng lồ “Hải Dương 981” ngang nhiên hạ đặt trái phép vào khu vực biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế, nằm sâu trong thềm lục địa của Việt Nam (ngày 02-05), cho đến khi nước này “ầm ĩ” rút giàn khoan kia về nước (ngày 15-07) đã hơn 2 tháng.
Trong khoảng thời gian này, truyền thông Việt Nam và quốc tế đã tốn biết bao giấy mực, phân tích đủ mọi góc độ để trả lời câu hỏi: Vì sao Bắc Kinh bất chấp luật pháp quốc tế kéo giàn khoan vào vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam khai thác dầu khí? Và vì sao họ lại đột ngột rút giàn khoan này về một cách chóng vánh như vậy?
Không khó để trả lời câu hỏi vì sao Trung Quốc đưa giàn khoan 981 hạ đặt trái phép tại khu vực quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Giới chuyên gia phân tích trong và ngoài nước đều cho rằng, ngoài yếu tố thăm dò dầu khí, mục đích “cốt lõi” của họ chính là thực hiện mưu đồ độc chiếm biển Đông, biến nó thành “ao nhà” của Trung Quốc.
Còn về lý do tại sao Bắc Kinh lại quyết định rút giàn khoan này sớm hơn dự kiến? (theo công bố của phía Trung Quốc, kế hoạch tác nghiệp của giàn khoan này tại vùng biển của Việt Nam sẽ kết thúc vào ngày 15-08). Về vấn đề này, có rất nhiều luồng ý kiến đưa ra bởi các chuyên gia phân tích chính trị, quân sự, các học giả và quan chức ngoại giao...
Một vài ý kiến phân tích cho rằng là do cơn bão siêu mạnh Rammasun đang dồn dập kéo vào biển Đông, nếu còn “gan lì” ở đó, chắc chắn giàn khoan này cùng hàng trăm tàu bảo vệ của họ sẽ bị cuốn chìm xuống đáy đại dương.

 Cũng có chuyên gia cho rằng là do Trung Quốc “sợ” Mỹ, bởi ngay từ khi Bắc Kinh đưa giàn khoan này vào vùng biển Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, Washington đã từng thẳng thừng chỉ trích Trung Quốc vi phạm luật pháp quốc tế, chủ động gây hấn, làm thay đổi hiện trạng tại biển Đông.

Một số học giả quốc tế lại cho rằng, Trung Quốc rút giàn khoan là do vấp phải sự phản kháng kịch liệt từ phía Việt Nam và sự lên án mạnh mẽ từ cộng đồng quốc tế.
Đó là những phân tích đánh giá của giới học giả nước ngoài, còn nội bộ Trung Quốc cũng có những ý kiến bình luận về vấn đề này. Trong đó, cần phân tích và mổ xẻ 4 nguyên nhân mà ông Quản Thanh Hữu - Chuyên gia hàng đầu về kinh tế vĩ mô, chuyên viên cao cấp Tập đoàn dầu khí hải dương Trung Quốc, Giáo sư thỉnh giảng Đại học dầu khí Trung Quốc, đã chỉ ra.
Thứ nhất, nguyên nhân khiến Bắc Kinh rút giàn khoan hải Dương 981 là do nước này đã đạt được mục đích chính trị. Ở một mức độ nào đó, hoạt động này chính là nước đi cuối cùng của nấc thang thăm dò chính trị, bởi Trung Quốc muốn bày tỏ ý công khai chủ quyền, điều tra tính khả thi về khai thác nguồn tài nguyên kinh tế hải dương tại vùng biển Hoàng Sa.
Đến nay, về cơ bản là Trung Quốc đã đạt được mục đích, đây là thời cơ thích hợp nhất để Bắc Kinh di chuyển giàn khoan. Hành động hạ đặt (trái phép) giàn khoan tại vùng biển Hoàng Sa lần này đã có được nhiều bước đột phá quan trọng, Trung Quốc đã thay đổi được hiện trạng, đã thực hiện được ý đồ chủ động tranh chấp, tạo tranh chấp và buộc các bên phải giải quyết vấn đề trong tranh chấp.
Đây là một nước cờ rất hiểm của Bắc Kinh hòng đánh lừa dư luận quốc tế là quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng trái phép của Việt Nam là khu vực “có tranh chấp”, buộc Việt Nam phải ngồi vào bàn đàm phán song phương với Trung Quốc về những vấn đề thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam.
 
Trung Quốc đang dốc toàn lực đóng mới tàu chiến và tàu chấp pháp
Vì vậy, chúng ta cần nhận thực rõ sau tuyên bố của vị giáo sư họ Quản là cái gì, đó chính là Trung Quốc đưa giàn khoan ra hạ đặt ở Hoàng Sa chủ yếu vì những mục đích chính trị và nếu chúng ta không có đối sách kịp thời, Bắc Kinh sẽ tiếp tục tiến hành bước 2, bước 3 của chiến lược này nhằm độc chiếm biển Đông.

Thứ hai, là do thái độ của Mỹ đã thay đổi theo chiều hướng quyết liệt hơn. Vị học giả họ Quản cho rằng việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan 981 tại vùng biển Hoàng Sa lần này đã gặp phải sự chỉ trích rất lớn của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là Mỹ. Ý đồ của ông này là Trung Quốc nên suy xét kỹ và “biết cương, biết nhu” đúng lúc.
Về vấn đề biển Đông, trên thực tế Mỹ chưa bao giờ có thái độ đứng ngoài quan sát. Ngày 10-7, Quốc hội Mỹ đã thông qua nghị quyết 412 yêu cầu Trung Quốc rút ngay giàn khoan Hải Dương 981, trả lại nguyên hiện trạng trước ngày 01-05 cho vùng biển này. Đây là một động thái khá quyết liệt chứ không “trung dung” như khi Trung Quốc chiếm đoạt bãi cạn Scarborough của Philippines.
Nếu Trung Quốc tiếp tục có những hành động ngang ngược thì rất có thể Mỹ sẽ không còn thái độ “lừng khừng”, quyết liệt xoay trục về châu Á-Thái Bình Dương, như vậy sẽ “lợi bất cập hại” đối với Bắc Kinh. Trung Quốc nên để Mỹ có thời gian “bận tâm tới những điểm nóng khác”, sau đó mới tiếp tục các hành động của mình.
Vì vậy, ông Quản cho rằng, đến thời điểm này, Trung Quốc dừng lại là đúng, không nên “ôm tất cả lửa vào mình”
Thời gian qua, phản ứng của cộng đồng quốc tế trước vụ việc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 đã dâng lên đền hồi “cao trào”, Trung Quốc muốn chia cắt nó thành từng đợt sóng nhỏ, không để tích tụ thành một “cơn sóng thần”. Vì vậy, Bắc Kinh dùng kế “rút củi dưới đáy nồi”, rút lui chờ dịp khác để hạ nhiệt những chỉ trích đang ngày càng quyết liệt của cộng đồng quốc tế.
 Thứ ba, đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc thực hiện mưu đồ khai thác nguồn tài nguyên dầu khí tại các vùng biển thuộc chủ quyền của nước khác. Năm 1992, chính phủ Trung Quốc đã từng hợp tác với công ty dầu khí Crestone của Mỹ, với kế hoạch tiến hành thăm dò khai thác nguồn tài nguyên dầu khí tại khu vực biển Trường Sa.
Do vấp phải sự phản đối kịch liệt của Việt Nam, năm 1996 họ đã rút khỏi khu vực phía bắc bãi Tư Chính. Việc Trung Quốc chấp nhận “nhún nhường” là vì khi đó họ còn thiếu về trang thiết bị kỹ thuật khai thác. Đồng thời khi đó, lực lượng hải quân của họ cũng còn mỏng yếu, lực lượng chấp pháp trên biển cũng mới đang manh nha được xây dựng.
Lần này, quay lại biển Đông cùng với giàn khoan bán ngầm nước sâu Hải Dương 981, được cho là hiện đại vào hàng bậc nhất thế giới, đảm bảo đủ các yếu tố phục vụ công tác khai thác dầu khí tại các khu vực nước sâu là một bước đi có chủ địch mang tính thực tiễn cao, nhằm khai thác dầu khí tại biển Đông của Trung Quốc.
Tuy nhiên, để phát hiện được trữ lượng dầu khí tại khu vực biển Hoàng Sa cần phải có thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng, chỉ một vài mũi khoan chưa thể giúp Bắc Kinh khảo sát được hết tiềm năng ở khu vực này. Hơn nữa, Bắc Kinh chưa tiến hành thăm dò địa chất 3D trước ở vùng biển này, vì vậy họ gặp rất nhiều khó khăn khi triển khai giàn khoan vào thăm dò, khai thác dầu khí.
Mặt khác trước khi đưa Hải Dương 981 vào biển Đông, Bắc Kinh cũng chưa có được sự nghiên cứu và tính toán về yếu tố kinh tế một cách kỹ lưỡng. Trung Quốc chỉ “mường tượng” rằng, khu vực này thể hiện có tiềm năng về dầu khí, chứ Bắc Kinh chưa hề bước sang giai đoạn phát hiện, xây dựng quy trình mang tính công nghiệp và thương mại.
 Vì vậy, Trung Quốc cần rút giàn khoan để có thời gian hoạch định chiến lược thăm dò và khai thác nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Như vậy, Bắc Kinh chỉ tạm ngừng tìm kế sách chứ sẽ không ngừng các hành động thăm dò, khai thác tài nguyên trên biển Đông, phục vụ cho nền kinh tế phát triển quá nóng, đang khát năng lượng của mình.
Thứ tư, Bắc Kinh không hề muốn xảy ra một cuộc chiến tranh, bởi chiến tranh không giải quyết được vấn đề gì. Trong bối cảnh tình hình thế giới căng thẳng, tranh chấp trên biển đang ngày một nóng hơn, tranh chấp chủ quyền hải dương dường như đã trở thành vấn đề nhạy cảm, có thể là tiền đề bùng phát một cuộc chiến tranh vì vấn đề kinh tế.
Bắc Kinh không muốn gặp phải sự việc tương tự như sự kiện ở Ukraine, khiến nước Nga phải liên tiếp đón nhận sự bao vây cấm vận từ Mỹ và phương Tây. Bởi thời đại ngày nay không còn là thời đại thích hợp cho việc sử dụng sức mạnh vũ lực.
Trong thời đại toàn cầu hóa, những cuộc chiến tranh hiện đại “không khói súng”, sẽ chủ yếu sử dụng các thủ đoạn bao vây, phong tỏa, cấm vận để triệt hại về kinh tế. Vì thế, hành động rút giàn khoan Hải Dương 981 không phải vì bão, không hẳn là vì sức ép của Mỹ và cộng đồng quốc tế mà chỉ là một “khoảng lặng” trước khi Bắc Kinh thực hiện những nước đi mới nhằm độc chiếm biển Đông.
Xét một cách toàn diện, khả năng xảy ra cuộc chiến quân sự tại biển Đông trong tương lai là thấp, bởi Bắc Kinh sẽ xem xét phương thức nào có lợi cho họ nhất. Sử dụng biện pháp uy hiếp bằng sức mạnh quân sự là lựa chọn tồi tệ nhất, dùng “cây gậy kinh tế” cũng sẽ gây ra những tổn thất cho chính họ, vì vậy trong tương lai nhất định Bắc Kinh sẽ nghĩ ra những chiêu trò mới.
Nguồn Baodatviet

Thứ Năm, 3 tháng 7, 2014

Trung Quốc tự lộ bản chất ngạo mạn, hung hăng, tráo trở

Cắm GK Hải Dương 981, phát hành bản đồ 10 đoạn, chính TQ đã tự vạch trần bản chất ngang ngược và hung hăng, tráo trở và lật lọng của mình.
Ngày 27-6 vừa qua, tờ “Thời báo Hoàn Cầu” đã trích đăng lại bài viết mang tiêu đề “Philippines cấu kết với Nhật, dẫn sói vào nhà, Abe mưu đồ dựng NATO châu Á” của tờ “Nhật báo Kinh Hoa”, trong đó lớn tiếng mắng nhiếc Nhật Bản và Philippines là phá hoại an ninh và hòa bình châu Á, đồng thời đe dọa các nước này sẽ phải nhận hậu quả thảm khốc do những hành động của mình.
Tờ “Nhật báo Kinh Hoa” bình luận: “Ngoài Aquino III ra còn có Shinzo Abe! Thủ tướng Nhật không bao giờ hài lòng để Tokyo chỉ đóng vai trò là ‘hàng không mẫu hạm không bao giờ chìm’ hay là một tên ‘tay sai’ quân sự của Mỹ tại châu Á Thái Bình Dương”.
Tuy nhiên, bài viết của họ không phân tích, nói thẳng ra là cố tình không đề cập đến nguyên nhân tại sao Nhật và Philippines phải làm như vậy. Các bình luận viên và các chuyên gia quân sự của họ đủ trình độ để hiểu được điều này nhưng họ “né” hoặc nếu có nói thì cũng cố tình xuyên tạc, bóp méo sự thật, theo cái cách giống như chính phủ của họ đang làm.
Nhật đã cam phận sống chung với bản “Hiến pháp hòa bình” mấy chục năm qua. Trước khi Trung quốc “trỗi dậy bạo lực”, đòi chủ quyền phi pháp, chèn ép các nước trên biển Đông và biển Hoa Đông, đã bao giờ Tokyo đòi sửa đổi hay cắt nghĩa lại bản “Hiến pháp hòa bình” hay chưa?
Suốt từ năm 1954 đến nay, Chính phủ Nhật Bản luôn tôn trọng điều 9 trong Hiến pháp với nội dung “cấm thực thi quyền tự vệ tập thể”, và luôn duy trì một chiến lược quân sự “hoàn toàn mang định hướng phòng thủ”. Thế thì tại sao giờ Tokyo phải giải thích lại Hiến pháp? Vì họ muốn chủ nghĩa phát - xít đội mồ sống dậy hay bị buộc phải vùng dậy, tự bảo vệ mình trước đòi hỏi chủ quyền ngang ngược của Bắc Kinh?
Các chuyên gia quân sự và học giả Trung Quốc đã bao giờ tự trả lời đúng với lương tâm mình về câu hỏi: “Philippines chấm dứt các thỏa thuận về căn cứ quân sự, buộc quân đội Mỹ phải rút khỏi các căn cứ hải quân Subic và căn cứ không quân Clack vào năm 1991 là vì lẽ gì”? Nếu Phi “cố tình xâm phạm chủ quyền Trung Quốc” như lời Bắc Kinh rêu rao thì họ đã không để quân đội Mỹ ra đi.
Có phải là Manila quá tin vào những “lời đường mật” của những nhà lãnh đạo Bắc Kinh về một “cường quốc Trung Hoa yêu hòa bình”, “tôn trọng chủ quyền của các dân tộc và luật pháp quốc tế” để rồi đến năm 1995, các vị đánh chiếm đảo Vành Khăn, đuổi dân Philipines về đất liền, tuyên bố đây là “đất đai ngàn đời nay của Tổ tiên dân tộc Trung Hoa” hay không!!!?.
Vi lẽ đó, hiện nay Philippines có mời Mỹ quay trở lại thì Trung Quốc cũng đừng nên hằn học làm gì, đó là những gì Manila thấy cần thiết để bảo vệ chủ quyền của mình trước “Người hàng xóm gian xảo”, nó là những hành động mà Manila bắt buộc phải làm để đáp trả lại sự ngang ngược và lật lọng của Bắc Kinh mà thôi.

Hiện nay, Bắc Kinh đang đầu tư rất mạnh cho quân đội đặc biệt là hải quân, ngoài ra còn có các lực lượng chấp pháp biển. Để làm gì? Để giúp đỡ nhân dân thế giới bảo vệ hòa bình và ổn định, để giúp đỡ các nước láng giềng bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình hay để cướp đoạt lãnh thổ của nước khác?”.
Bắc Kinh luôn miệng rêu rao “chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc đang bị các nước láng giềng cấu kết nhau xâm phạm”. Sự phi lý trong tuyên bố này đến trẻ con cũng không tin được. Nhân dân Trung Hoa có bao giờ thắc mắc là tại sao 1 nước lớn như Trung Quốc lại bị hàng loạt nước láng giềng nhỏ bé chưa bằng 1 tỉnh của mình “xâm lược” hay chưa? Chả lẽ mấy nước này ăn “gan hùm, mật gấu” hay sao?
Ông Tập Cận Bình còn đưa ra tuyên bố hết sức nực cười là “Trung Quốc không có gene xâm lược” hoặc “Trung Quốc chỉ bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình”! Đã bao giờ các học giả Trung Quốc tự hỏi mình: “Tại sao Trung Quốc có lắm kẻ thù đến thế” chưa? Có lẽ ngay cả Mỹ là nước đã từng gây chiến khắp nơi trên thế giới, nhưng có lẽ còn ít kẻ thù hơn Bắc Kinh.
Bài viết của “Kinh Hoa nhật báo” còn lớn tiếng chỉ trích Nhật Bản là: “Dã tâm chiến lược của Tokyo là lôi kéo đồng minh, tạo ra một ‘Lá chắn thép’ mới ở Tây Thái Bình Dương - một ‘NATO’ phiên bản châu Á do Nhật đứng đầu để chống lại Trung Quốc”. Điều này có thể là đúng, nhưng không nên dùng từ “dã tâm” mà nên dùng từ “mong muốn” hoặc là “hy vọng” hoặc đúng hơn là “bắt buộc”.

Trung Quốc đang làm gì trên biển? Khóa chiến hạm Nhật bằng radar điều khiển hỏa lực, mang máy bay chiến đấu gắn tên lửa đuổi máy bay trinh sát Nhật cách 30m trên biển Hoa Đông, đâm thẳng vào tuần dương hạm Mỹ trên biển Đông, đây có phải là những hành động chủ động khiêu khích, khơi mào cho xung đột hay không?
Trung Quốc trước dùng vũ lực chiếm đoạt bãi cạn Scarborough, sau tập trung tàu thuyền khống chế bãi Cỏ Mây và bãi Cỏ Rong, không cho tàu công vụ Philippines tuần tra chủ quyền, ngăn cản các hoạt động tiếp tế cho lực lượng đồn trú, cấm ngư dân Philippines đánh cá trên biển. Đây có phải là hành động cậy mạnh hiếp yếu, thể hiện dã tâm “xâm lược” trên biển hay không?
Mấy chục năm qua cả thế giới đã nhận thức rõ bản chất ngang ngược và hung hăng, tráo trở và lật lọng của Trung Quốc. Nhân lúc Việt Nam đang có chiến tranh và tập trung hàn gắn các vết thương chiến tranh, Bắc Kinh đã năm lần bảy lượt dùng vũ lực đánh chiếm các đảo và bãi đá thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Để hợp thức hóa cái gọi là “chủ quyền cướp đoạt được bằng vũ lực”, Bắc Kinh đã ngang ngược cắm giàn khoan Hải Dương 981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, biến những vùng biển không tranh chấp thành có tranh chấp, nhằm âm mưu biến đất đai của người khác thành lãnh thổ của mình.

Không những thế, Trung Quốc còn điều hàng trăm tàu mỗi ngày để xua đuổi, đâm húc tàu công vụ Việt Nam, sau đó còn lớn tiếng vu vạ là các tàu chấp pháp nhỏ hơn hàng chục lần của Việt Nam đâm húc vào các tàu cảnh sát biển hàng nghìn tấn của mình tới 1500 lần, đồng thời cho người nhái thả lưới cá và các chướng ngại vật trên biển để ngăn tàu Trung Quốc!!!?
Dã man hơn nữa là vào ngày 26-5-2014, tàu cá vỏ sắt tải trọng lớn mang số hiệu 11209 của Trung Quốc đã đâm chìm, sau đó còn cố tình nhấn tàu cá mang số hiệu ĐNa-90152-TS của Việt Nam (trên tàu có 10 thủy thủ) chìm sâu xuống biển. Đạt đến sự cùng cực của hành động mất nhân tính là các tàu Trung Quốc còn tìm cách ngăn cản, dọa dẫm các tàu cá khác của Việt Nam đến cứu người.
Sau đó, Bắc Kinh lại bịa đặt trắng trợn là tàu cá Việt Nam cố tình lao vào giàn khoan Hải Dương 981 rồi đâm phải tàu cá Trung Quốc và tự chìm!!! Những thước phim chân thực của ngư dân Việt Nam đưa ra trước cộng đồng quốc tế đã tố cáo hành động hung hăng vô nhân tính, thái độ ngang ngược và tính cách lật lọng, vô liêm sỉ của nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Vô cớ dùng vũ lực tấn công những ngư dân không vũ khí ngay trên vùng biển của đất nước mình là hành động mang tính chất “cướp biển” nhưng ngăn cản hành động cứu người bị nạn còn thể hiện sự tàn ác, vô nhân đạo trước đồng loại. Nó chính là sự thể hiện rõ nhất bản chất xâm lược, trái ngược với những tuyên bố xoen xoét về một đất nước Trung Hoa yêu chuộng hòa bình của nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Không dừng lại ở đó, ngày 23-6 vừa qua, Bắc Kinh còn chính thức phát hành bản đồ dọc, nuốt trọn cả bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ, ngay sau khi vừa vuốt ve New Dehli bằng “những lời có cánh”, khiến cho người Ấn nổi giận. Không những thế, “Bản đồ xâm lược” của Trung Quốc còn thay “đường 9 khúc” bằng “đường 10 đoạn”, “liếm” trọn biển Đông.
Ngay cả người dân Trung Quốc cũng cảm thấy “ngượng ngùng” khi nhìn tấm bản đồ mới, vì không hiểu sao lãnh thổ nước nhà “đột ngột” rộng thêm nhiều quá thì được nhà cầm quyền giải thích là “trước đây, lãnh thổ Trung Quốc đã như thế rồi nhưng chúng ta quen nhìn bản đồ ngang nên bây giờ nhìn bản đồ dọc nó ‘không quen’!!!”. Thật không còn giấy bút nào tả hết sự “khôi hài” trong cách giải thích của Bắc Kinh.
Trung Quốc quay phía tây lấn chiếm Ấn Độ, ngoảnh phía đông chèn ép Nhật Bản, nhòm phía nam gây hấn với Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonessia…, dùng vũ lực đe dọa, gây gổ với hầu như toàn bộ các nước láng giềng. Trước sự uy hiếp bằng vũ lực của Bắc Kinh, các nước này không liên kết với nhau để chống lại Trung Quốc mới là lạ.
Vì thế, Trung Quốc nên dừng ngay những luận điệu vu vạ Nhật Bản và các nước đông nam Á cố kết với nhau lập “NATO châu Á” để chống lại mình. Nếu Bắc Kinh không ôm mộng bành trướng, xâm phạm đến chủ quyền của các nước khác, chà đạp lên luật pháp quốc tế thì chẳng ai tự nhiên đi lập khối đồng minh để chống lại họ.
Phần cuối bài viết, tờ Kinh Hoa trích dẫn lời Người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc là nước này hy vọng cùng với các quốc gia hợp sức bảo vệ hòa bình và ổn định khu vực. Lịch sử cận đại 100 năm của châu Á Thái Bình Dương đã chứng minh một lẽ thường tình: “Ai có công thì sẽ được hưởng; ai chơi với lửa, thì kẻ đó sẽ tự thiêu; ai rước lang sói vào nhà thì kẻ đó sẽ mất hết”.
Luận điệu hằn học của tờ “Kinh Hoa nhật báo” chả khác gì “Thời báo Hoàn Cầu”, có lẽ vì thế mà nó được tờ báo này đăng lại. Điều này cũng không lạ vì ít người biết rằng, cả 2 tờ báo này đều là những phụ bản của “Nhân dân nhật báo”, được sử dụng như một công cụ tuyên truyền, nói xấu, xuyên tạc và đe dọa các nước khác.
Ai góp công để bảo vệ hòa bình và an ninh khu vực thì nhân dân thế giới đều biết, ai chơi với lửa thì cộng đồng quốc tế cũng đã rõ. Luận điệu ru ngủ của Trung Quốc hiện chẳng lừa phỉnh được ai, những lời đe dọa của Bắc Kinh càng làm cho các nước trong khu vực quyết tâm liên kết lại để đối phó với âm mưu xâm lược Trung Quốc.
Nếu Nhật Bản, Ấn Độ, Philippines, Malaysia, Indonesia có liên minh với nhau và dựa vào Mỹ để đối phó với Trung Quốc thì đó cũng là sự đoàn kết để chống lại giấc mộng bá quyền của Bắc Kinh chứ không phải để để xâm lược nước khác hay đe dọa hòa bình và an ninh trong khu vực. Câu kết của tờ “Kinh Hoa nhật báo” nên để chính nhà cầm quyền Bắc Kinh và nhân dân Trung Quốc suy ngẫm!

 Nguồn Baodatviet

/
Lên đầu trang
Vào giữa trang
Xuống cuối trang