Hiển thị các bài đăng có nhãn TÌNH HÌNH THẾ GIỚI. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn TÌNH HÌNH THẾ GIỚI. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 3 tháng 3, 2014

Vấn đề Ukraine: Vì sao Nga động binh, Mỹ đứng nhìn?

Nga quyết động binh để giữ vùng đệm Ukraine, Mỹ vẫn đứng ngoài cuộc. Mảnh đất có lịch sử như biểu tượng của sự chia cắt này sẽ đi về đâu?

Ukraine – biểu tượng của giao tranh và thuộc địa

Nhìn lại lịch sử của Ukraine, vùng đất này đã từng có thời kỳ hoàng kim, là một đế chế hùng mạnh, nhưng xuyên suốt quá khứ, người ta thường nghĩ đến sự giao tranh, chia cắt, lệ thuộc nhiều hơn.

Lịch sử của Ukraina cũng như lịch sử Nga bắt đầu từ khoảng thế kỉ 9 sau công nguyên khi vùng đất này trở thành trung tâm của nền văn minh Đông Slav với quốc gia Nga Kiev hùng mạnh tồn tại đến thế kỉ 12. Sau đó, quốc gia này bị đế quốc Mông Cổ đánh bại và trở thành một miền đất nô lệ.

Mông cổ suy yếu, Ukraine bị xâu xé bởi Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga. Thế kỉ 19, Đế quốc Nga trỗi dậy và thâu tóm toàn bộ Ukraine. Năm 1922, Ukraine trở thành một nước đồng sáng lập Liên bang Xô viết và trở thành một nước cộng hòa theo thể chế xã hội chủ nghĩa nằm trong Liên Xô. Năm 1991, Liên Xô sụp đổ và Ukraine lại trở thành một quốc gia độc lập cho đến thời điểm này.
Trong lịch sử hiện đại từ thế kỷ 20 đến nay, Ukraine được coi như một mảnh đất có giá trị địa chính trị quan trọng và thường xuyên chịu sự tác động, giằng xé của hai luồng ý thức hệ, xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Sau thế chiến hai, Ukraine nằm trong sự bao bọc che chở của Liên Xô, nhưng ngay sau khi Liên Xô tan rã, sự độc lập của đất nước này lại chịu sự ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản với các nền kinh tế phương Tây.

Cho tới thế kỷ 21, sự trở lại của nước Nga dưới thời Tổng thống Putin với sức mạnh kinh tế, quân sự vượt trội đã một lần nữa đẩy quốc gia này quay trở lại với sư giằng xé Đông – Tây. Một mặt liên minh châu Âu quyến rũ Ukraine gia nhập vào đội ngũ của mình, tiến tới gia nhập WTO với sự chi phối kinh tế của Mỹ, EU. Trong khi đó, Nga nỗ lực lấy lại địa vị cường quốc như thời Liên Xô hoàng kim.

Khi những cuộc cách mạng màu sắc trở thành chiêu bài ưa thích của phương Tây, việc Ukraine rơi vào tình trạng bất ổn như hiện nay là điều dễ hiểu, nhưng tương lai sẽ đi đến đâu, còn tùy thuộc vào quyết tâm của hai cường quốc Nga – Mỹ.

Quyết tâm của Putin và giấc mơ phân chia thế giới

Trong bối cảnh cuộc biểu tình Ukraine nằm ngoài tầm kiểm soát của nước Nga, khi chính phủ thân Nga đã bị lật đổ, Tổng thống Viktor Yanukovych buộc phải bỏ trốn khỏi đất nước, chính phủ lâm thời của Ukraine được cho là thân phương Tây, điều này đồng nghĩa với việc Nga đang mất dần tầm ảnh hưởng tại vùng đất này.

Để mất Ukraine, Nga sẽ mất những gì? Trước hết là mất tấm áo giáp ở ngay cửa ngõ nước Nga. Từ Ukraine, sẽ không quá xa để bộ binh kẻ thù tiến thẳng vào Moscow. Sư yên ổn và thần phục của Ukraine có tầm ảnh hưởng quan trọng với an ninh nước Nga.
Không phải tự nhiên Nga bỏ công sức để chi phối và kiểm soát nền kinh tế Ukraine. Nga cung cấp đến 80 % khí đốt cho nước này. 25 % xuất khẩu của Ukraine đổ vào thị trường Nga và Ukraine cũng nhập vào hơn 30 % hàng hóa của Nga. Bên cạnh đó, tư bản Nga kiểm soát tới gần 1/3 nền kinh tế quốc gia này. Ukraine nhỏ bé, nhưng là miếng bánh béo bở, dễ ăn và dễ giữ.

Còn phương Tây, vì sao họ muốn lôi kéo Ukraine? Nga đang trỗi dậy mạnh mẽ và không hề che giấu mục tiêu lấy lại vị trí cường quốc như thời Liên Xô. Tổng thống Nga Vladimir Putin đã từng nói: “Để mất đi giá trị cường quốc của Liên Xô là tổn thất lớn nhất trong lịch sử nước Nga”. Còn phương Tây, họ nhận xét về Putin như “nỗ lực thi đua với sự hùng vĩ của Liên Xô cũ”.

Việc Vladimir Putin theo đuổi một giấc mơ thế giới hai cực, thậm chí đơn cực với vai trò nước Nga không khác gì mục tiêu mà ngày trước Liên Xô đã nỗ lực thực hiện, chỉ khác về ý thức hệ. Nếu Liên Xô đã mong muốn làm cuộc đại cách mạng, toàn cầu đi lên chủ nghĩa xã hội, thì Putin chỉ muốn đem về quyền lợi theo tư tưởng dân tộc chủ nghĩa.

Giấc mơ Putin không khác gì với giấc mơ Trung Hoa mà Tập Cận Bình đã đề ra. Và cách mà phương Tây (Mỹ, NATO) đang triển khai cũng không khác gì cách mà họ làm với Trung Quốc tại châu Á – Thái Bình Dương. Có thể nói, họ dùng chiêu bài của Trung Quốc để áp dụng với Nga, hoặc hiểu ngược lại cũng được. Tựu chung cũng nhằm mục đích phong tỏa, cô lập, kìm chế và chờ đợi lật đổ bằng cách mạng màu sắc.
Hạm đội Biển Đen của Nga có căn cứ tại bán đảo Crimea (Ukraine)
Nếu như Mỹ làm được ở châu Á – Thái Bình Dương một “chuỗi ngọc trai” để buộc vào cổ Trung Quốc, thì việc của EU là phải làm được chuỗi ngọc ấy trên đất liền, áp sát ngay vào cửa ngõ nước Nga. Phong tỏa Nga, kiềm chế sức mạnh Nga là sự đảm bảo quyền lợi lâu dài cho NATO cũng như vị trí số một của nước Mỹ.

Quay trở lại vấn đề động binh với Ukraine, những lý luận về bảo vệ nhân dân tại nhà nước tự trị Crimea chỉ là cái cớ sáo rỗng. Quan trọng nhất, Nga có lợi ích kinh tế, địa chính trị, và quan trọng hơn, Ukraine là một bước trong chiến lược trở lại hoàng kim của nước Nga.

Nga đang theo đuổi vị thế của cường quốc số một thế giới, và rất có thể đã cho mình quyền được hành động đơn phương như cường quốc số một. Nhìn lại lịch sử, những Kosovo, Afghanistan, Iraq, Lybia… Mỹ đã cho mình quyền đơn phương hành động, cũng với chiêu bài bảo vệ quyền lợi Mỹ, thậm chí mơ hồ hơn là bảo vệ nhân quyền cho thế giới.

Ukraine đang dần tuột khỏi tay Nga. Và việc động binh là cần thiết. Đánh để bảo vệ lợi ích mà Nga mất công đầu tư, đánh để giữ vững sự ảnh hưởng, và quan trọng hơn hết, đánh để nước Nga nhận thấy sự quyết tâm đối với giấc mơ mà họ đang theo đuổi.

Mỹ đang đổ gánh nặng cho đồng minh

Nga đã động binh, còn Mỹ, họ đang làm gì? Động thái trực tiếp đáng ghi nhận nhất tới thời điểm này là cuộc điện đàm giữa ông Obama và ông Putin. Ở đó họ tỏ thái độ với nhau thế nào? Trợ lý Tổng thống Mỹ nói: “Ngài đã thẳng thắn và quyết liệt”. Mỹ đã đe dọa sự trừng phạt về kinh tế với Nga, dọa cắt quan hệ ngoại giao… một lần nữa Nga – Mỹ lại căng thẳng sau vấn đề Syria.

Còn hiệu quả của cuộc điện đàm này thì đã quá rõ, Nga phớt lờ, 15.000 quân Nga đã đến Crimea. Lối vào Biển Đen bị phong tỏa bởi cạm bẫy hải quân thông minh. Nghị sĩ của Nga đã khẳng định “kể cả tàu sân bay của Mỹ có đến cũng không giải quyết được vấn đề”.
Xe tăng Nga đã dàn trận tại biên giới hai nước Nga - Ukraine
Nhưng thực sự, Mỹ có muốn đối đầu trong vấn đề này? Nói thẳng, Ukraine quá nhạt nhẽo với Mỹ. Quyền lợi có, nhưng không phải quyền lợi sát sườn. Mục tiêu của Mỹ bây giờ là châu Á – Thái Bình Dương. Mỹ đã bỏ qua cuộc không kích Syria để tránh sa lầy, toàn tâm toàn ý chuyển từ Trung Đông sang Thái Bình Dương. Mỹ không hề muốn hành trình của cuộc chuyển trục này phải lạc vào một Ukraine nhỏ bé ở Đông Âu, nơi có rất nhiều đồng minh của mình ở đó.

Còn động thái của các quốc gia châu Âu thân Mỹ, những thế lực đã hứa hẹn đủ điều với chính phủ lâm thời Ukraine, khi Nga dẫn quân vào quốc gia này, ngoài sự phản đối qua kênh ngoại giao và Liên Hợp Quốc, chưa quốc gia nào gửi quân ủng hộ hay hứa hẹn viện trợ chính phủ mới.

Điều đơn giản, họ đang chờ đợi động thái của người chỉ huy, nước Mỹ. Nhìn lại thế cuộc Syria, khi Anh, Pháp, Arab Saudi, Israel… đạn đã lên nòng, tàu ngầm mang tên lửa đã đến bờ biển Syria, nhưng chỉ vì Mỹ chưa “khai mạc” nên chẳng ai dám thi đấu.

Với Ukraine, những cuộc biểu tình nhằm lật đổ chính quyền thân Nga dễ hiểu đều có bàn tay của Mỹ và châu Âu đứng sau. Nhưng lần này Nga làm căng, đối đầu với Nga tại Đông Âu chỉ khiến tình cảm của Nga – Trung Quốc càng khăng khít tại Thái Bình Dương.

Trong cục diện Ukraine, có thể nói, các đồng minh châu Âu của Mỹ sẽ phải giữ màu sắc chủ đạo.

Nguồn baodatviet

Thứ Bảy, 7 tháng 12, 2013

Vì sao Trung Quốc không thể lập ADIZ trên Biển Đông?

Phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Trung Quốc Dương Vũ Quân đã nói: "Sau khi hoàn thành các công việc chuẩn bị có liên quan, Trung Quốc sẽ thành lập kịp thời các khu vực nhận dạng phòng không (ADIZ) khác”. Và, không có gì là quá bí mật, đó chính là khu vực tranh chấp trên Biển Đông.
Rõ ràng là không ai có thể nghi ngờ ý định tham vọng của Trung Quốc, nhưng không phải lúc nào muốn cũng được, cho nên phải chờ sau khi hoàn thành các công việc chuẩn bị có liên quan. Vậy, những công việc chuẩn bị có liên quan đó là gì, liệu điều kiện khách quan, chủ quan có cho phép Trung Quốc thực hiện tham vọng đó hay không?...
Tại sao Trung Quốc lại lập ADIZ trên biển Hoa Đông trước Biển Đông?

Sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự xoay trục của Mỹ sang châu Á-TBD đã tạo ra trên khu vực này một cuộc chiến địa chính trị khốc liệt, căng thẳng. Đồng thời tranh chấp vùng biển giàu tài nguyên, đường hàng hải quan trọng đã khiến cho các nước trong khu vực với Trung Quốc có nguy cơ xảy ra xung đột cao trước hành động đơn phương, đề cao sức mạnh của Trung Quốc…

Có thể nói khu vực châu Á-TBD đã như là một chiến trường của cuộc chiến tranh lạnh kiểu mới rất căng thẳng. Trung Quốc đang rất bức bối khi đang cố thoát ra khỏi sự bao vây của Mỹ và đồng minh trong chuỗi đảo thứ nhất.

Trong tình thế đó, Trung Quốc tuyên bố ADIZ trên biển Hoa Đông. Đây là lần đầu tiên Trung  Quốc lập quy tắc chơi trong khu vực không tiếp giáp trực tiếp với lãnh thổ quốc gia của mình và được coi như một thách thức rất nghiêm trọng với Mỹ bởi lẽ 70 năm nay, chỉ có Mỹ, Nhật Bản nêu quy tắc ở đây.
Tất nhiên Trung Quốc đã tính rất kỹ khi chọn khu vực này.  

Trước hết về vị trí địa lý, đây là khu vực gần trước cửa nhà nên Trung Quốc có điều kiện (lợi thế) để có thể dùng lực lượng không quân và các phương tiện khác trấn áp buộc đối phương thực thi những điều kiện do mình áp đặt, xuất phát từ đất liền mà không cần tàu sân bay hay máy bay tiếp dầu…khi thực thi nhiệm vụ, trong khi Nhật Bản cách xa Senkaku Điếu Ngư hơn Trung Quốc khoảng 200km. Nếu Nhật Bản không khuất phục, đụng độ có xảy ra thì Trung Quốc có đủ tự tin chiến thắng.

Thứ hai là, đối tượng mà Trung Quốc nhắm tới trực tiếp là Nhật Bản, một quốc gia có năng lực quân sự, kinh tế tương đương, đồng minh của Mỹ, một liều thuốc thử cực mạnh.

Nếu sau khi triển khai thành công (nghĩa là Nhật Bản phải xin phép, cúi đầu khuất phục, còn Mỹ làm ngơ…), thì chiến lược chống tiếp cận của Trung Quốc không đánh mà thắng, lúc đó Trung Quốc tự nhiên có 2 thông điệp hoành tráng cho các nước ASEAN:

Thông điệp thứ nhất, Nhật Bản mạnh như thế, đồng minh quan trọng, lâu đời với Mỹ như thế mà Trung Quốc ra tay là được, Mỹ cũng phải thúc thủ.

Và, thông điệp thứ hai, nếu quốc gia nào còn phản đối ADIZ của Trung Quốc, còn nghe theo Nhật, Mỹ thì… hãy coi lại thông điệp thứ nhất.

Phải công nhận rằng Trung Quốc tuyên bố ADIZ trên biển Hoa Đông là đã chọn đúng tử huyệt để ra đòn phản công. Nói là tử huyệt bởi lẽ khi bị điểm sẽ gây ra sự rung động toàn cục, toàn chuỗi đảo được coi như là để bao vây Trung Quốc bị mất sự khống chế vùng trời. Khi Trung Quốc làm chủ vùng trời thì có nghĩa là làm chủ tất cả, là quy luật của chiến tranh hiện đại.
Vùng nhận diện phòng không (ADIZ) do Trung Quốc đơn phương thiết lập trên biển Hoa Đông
Tuy nhiên, tìm ra hay nhìn thấy được tử huyệt là quan trọng nhưng năng lực tổ chức thực hiện để ra đòn dứt điểm mới quyết định vấn đề. Nếu ra đòn vào tử huyệt, là đòn hiểm mà không dứt điểm được có nghĩa là người ra đòn đã chơi với tử thần.

Trung Quốc tuyên bố lập ADIZ trên biển Hoa Đông là đòn hiểm nhằm vào tử huyệt, nhưng tiếc thay chưa đủ lực để làm cho đối phương tê liệt.

Điều bất ngờ xảy ra là trong khi Nhật Bản tỏ ra hết sức kiềm chế thì Mỹ, có vẻ như ngoài cuộc mà Trung Quốc không nhắm tới, lại lao vào chơi rất rắn, không ngại va chạm mà thế giới theo dõi đã biết.

Hành động của Mỹ một mặt là cảnh cáo Trung Quốc, sẵn sàng tham gia trực tiếp để bảo vệ lợi ích quốc gia. Mặt khác, Mỹ muốn chứng tỏ cho đồng minh biết Mỹ có thừa khả năng nói “không” với Trung Quốc, đồng thời, ngăn ngừa Nhật Bản tái vũ trang quá đà, khó kiểm soát.

ADIZ trên Biển Đông, lúc nào và nơi đâu?

Trước tình thế này, giả sử Trung Quốc lập ADIZ trên Biển Đông chẳng hạn như trên không phận của cái gọi là thành phố Tam Sa…thì sao?

Trên khu vực đó thì không quân Trung Quốc chưa đủ khả năng để phòng thủ khẩn cấp khi cần thiết, họ còn đang chờ có tàu sân bay.

Khu vực nhận dạng phòng không này nếu lập ra sẽ đụng tới nhiều bên tranh chấp rất quyết liệt và hầu như nằm ngay trước cửa nhà của họ mà máy bay, các phương tiện phòng không khác đều đủ sức thực thi chủ quyền của mình. Chưa hết, khu vực này còn liên quan đến lợi ích quốc gia của nhiều cường quốc khác nữa như Nga, Ấn Độ... mà Trung Quốc phải suy nghĩ nhiều lần.

Nhật Bản đang chờ Trung Quốc tuyên bố thành lập ADIZ trên Biển Đông để ra đòn. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe cho biết nước này “sẽ xử lý vấn đề ADIZ của Trung Quốc một cách bình tĩnh và kiên quyết, bằng cách phối hợp chặt chẽ với cộng đồng quốc tế”. Đó là gì nếu như không phải là thành lập khối các nước phản đối ADIZ phi pháp của Trung Quốc?

Đây là điều mà Trung Quốc chẳng bao giờ muốn, bởi vì có nghĩa là Trung Quốc đã đẩy ASEAN vào vòng tay Nhật Bản trong khi thực chất cái gọi là ADIZ cũng chẳng có ý nghĩa gì với các nước này, nó cũng như các vùng cấm đánh bắt trên biển mà Trung Quốc đơn phương đặt ra thôi nhưng mà cái mất thì quá lớn.

Khi nước cờ trước bị lộ, bị phá thì nước cờ sau sẽ khó lòng tồn tại, và nếu cứ cố tình đi tiếp nước cờ sau thì vô nghĩa. Cho nên, tuyên bố ADIZ trên biển Đông chỉ có thể là sản phẩm của những viên tướng diều hâu nhưng “không tỉnh táo” mà thôi.

Với diễn biến ngày càng bất lợi, ngày càng núng thế, không lường trước khi tuyên bố ADIZ trên biển Hoa Đông của Trung Quốc, chúng ta nhận thấy có 2 khả năng có thể xảy ra:

Trong tương lai gần, Trung Quốc chưa tuyên bố ADIZ của họ trên Biển Đông, bởi lẽ cuộc chiến địa chính trị giữa Mỹ và Nhật Bản với Trung Quốc xảy ra trên khu vực ĐNA này cũng mang tính chiến lược sống còn của Trung Quốc và chiến lược xoay trục sang châu Á-TBD của Mỹ. Mất khu vực này Trung Quốc không có hy vọng gì khi đối đầu với Mỹ, Nhật Bản.

Tuy thế, khi Trung Quốc tuyên bố ADIZ dù ở đâu thì cũng đều là nguy hiểm không trước mắt thì lâu dài cho khu vực. Khu vực đó trước mắt không thực thi được thì khi mạnh lên Trung Quốc sẽ thực thi. Có ai nghĩ rằng cái đường lưỡi bò mà chính quyền Tưởng vạch ra năm 1946 mà bây giờ Trung Quốc cũng lấy đó để đòi biến Biển đông thành ao nhà?

Vì thế, các quốc gia phải cảnh giác, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn những đòi hỏi, áp đặt phi lí, phi pháp ngay từ trứng nước.

Lê Ngọc Thống

Thứ Tư, 27 tháng 11, 2013

Mỹ cảm ơn Trung Quốc khi thử khu nhận diện phòng không?

Trung Quốc lập khu nhận diện phòng không trên biển Hoa Đông chỉ tạo cơ hội khiến Mỹ thị uy và gia tăng ảnh hưởng tới đồng minh.
Hai phép thử để thấy sức mạnh hổ báo Trung Quốc 
10h00 ngày 23/11, Trung Quốc lập khu nhận diện phòng không (ADIZ) trên vùng biển Hoa Đông, bao gồm quần đảo Senkaku/Điếu Ngư.
Trung Quốc dựa vào đâu để ngang ngược như vậy? Ngay sau khi ADIZ được thiết lập, Trung Quốc đã điều một loạt chiến đấu cơ, chiến hạm, trực thăng chiến đấu đến vùng biển này để thực thi cái gọi là chủ quyền tại khu vực này. Có thể thấy, Trung Quốc đang thực sự cậy vào sức mạnh quân sự của mình để duy trì những hành động đơn phương.
Tuy nhiên, hành động cậy mạnh của Trung Quốc ngay lập tức vấp phải những phép thử quyết liệt. Ngày 25/11, Mỹ đã điều hai máy bay B-52 dạo qua vùng "nóng" của Trung Quốc mà không hề “xin phép”.
Phát ngôn viên Lầu Năm Góc, Đại tá Steve Warren, thông báo: "Chúng tôi thực hiện đợt huấn luyện được lên kế hoạch từ lâu trong khu vực thuộc quần đảo Senkaku, bao gồm 2 máy bay bay khứ hồi từ đảo Guam. Chúng tôi vẫn tiếp tục làm theo các thủ tục thông thường, không thông báo trước kế hoạch bay, hoặc gửi thông tin bằng radio hay đăng ký tần số trước... Chúng tôi đã hiện diện tại đây khoảng một giờ đồng hồ mà không vấp phải bất kỳ một rắc rối nào”.
 
Màn chào hỏi này như một gáo nước lạnh tạt vào sự tự kiêu của người khổng lồ châu Á. Với phép thử này, Mỹ đã đặt Trung Quốc vào hai thách thức, một là Trung Quốc không đủ tiềm lực quân sự để nhận ra sự hiện diện của máy bay Mỹ suốt 1 tiếng đồng hồ.
 
Hai là Trung Quốc không dám cậy mạnh đối với Mỹ. Dù hiểu theo phương diện nào, phép thử nhỏ này của Mỹ cũng đủ khiến Trung Quốc mất mặt, trở thành kẻ cậy lớn bắt nạt nhỏ. Nhưng quốc gia mà Trung Quốc lựa chọn để bắt nạt lần này là Nhật Bản. Một điều chắc chắn, họ nhỏ nhưng không yếu. Nhật Bản có cả tiềm năng quân sự, kinh tế, là đồng minh thân cận của Mỹ.
 
Bộ Quốc phòng Nhật Bản cho hay, chiều 23/11, máy bay trinh thám Tu-154 và phi cơ quân sự Y-8 của Trung Quốc tiến vào phía trên vùng nam Hoa Đông. Trong đó, chiếc Tu-154 bay cách khu vực mà Nhật Bản xem là không phận phía trên quần đảo Senkaku/Điếu Ngư chỉ 40 km.
Quần đảo Senkaku/Điếu Ngư - Ảnh: Reuters
Hai chiến đấu cơ F-15 đã lập tức được Tokyo điều ra ngăn chặn các máy bay của Bắc Kinh. Bộ Ngoại giao Nhật Bản cũng cho biết, nước này đã bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ về động thái trên đối với sứ quán Trung Quốc ở Tokyo và tái khẳng định về chủ quyền của Nhật Bản với Senkaku/Điếu Ngư. 
 
Như vậy, chỉ sau khi trung quốc lập khu nhận dạng phòng không chỉ vài tiếng đồng hồ, Nhật Bản đã khiến Trung Quốc bẽ mặt vì khu vực đó gần như không có chút giá trị trong mắt Nhật. 
 
Những cú ghi bàn với đồng minh sau bão Haiyan
 
Hai chiếc máy bay ném bom này dường như đã chuyển đi thông điệp Mỹ không hề che giấu ý định cho Trung Quốc thấy nước này không đủ sức, thậm chí là không sẵn lòng, để bảo vệ ADIZ.
 
Việc phái B-52 bay tập cũng mang ý đồ riêng. Có mặt trong không quân Mỹ đã hơn nửa thế kỷ, B-52 chậm chạp và dễ phát hiện hơn hẳn các loại chiến đấu cơ tàng hình đời mới.
 
Tuy nhiên, Trung Quốc không sẵn lòng bảo vệ vùng phòng không mình tự lập ra, hoặc không đủ sức đối phó với vũ khí từ nửa thế kỷ trước của Mỹ, điều này là một nỗi xấu hổ với người Trung Quốc hay khoe khoang về tiềm năng quân sự.
 
Ngoài ra, Mỹ cũng cần cảm ơn "vùng nóng" này của Trung Quốc. Việc cam kết giữ vững mối quan hệ đồng minh với Nhật Bản đã được thể hiện rõ ràng qua trường hợp này.
 
Mỹ đã từng nhiều lần phát biểu về sự lo ngại những bất ổn trong khu vực Biển Hoa Đông, nhiều lần kêu gọi hai bên kìm chế, nhiều lần hứa đứng về Nhật Bản nhưng chưa một lần “làm thật”.
 
Có lẽ Trung Quốc đã chủ quan, nhưng với ADIZ, phép thử của Mỹ đã có một sự tác động sâu sắc khiến Nhật Bản vô cùng cảm kích.
Quân đội Mỹ - Nhật tập trận chung
Ông Dean Cheng, nhà phân tích của Quỹ Heritage, nhận định Bắc Kinh nhiều khả năng sẽ tự xuống thang và bỏ mặc khu vực trên. “Người Trung Quốc có thể không ngờ là Mỹ lại phản ứng mạnh sớm như thế. Cách Mỹ dằn mặt gửi đi một thách thức rõ ràng: “Nhìn đi, chúng tôi hoàn toàn nghiêm túc khi nói rằng chúng tôi là đồng minh của Nhật Bản. Và đừng có làm loạn lên”.
 
Chưa kể từ vấn đề vùng nhận diện phòng không của Trung Quốc sẽ tạo nên những nguy cơ bất ổn sâu sắc trong khu vực. Và Mỹ hoàn toàn có thể dựa vào đỏ để tăng thêm sự hiện diện quân đội nhằm "bảo vệ những lợi ích dân sự và thương mại" của quốc gia này.
 
Nhìn lại những mối quan hệ đồng minh của Mỹ tại châu Á – Thái Bình Dương, với Hàn Quốc, Mỹ thực hiện do thám, điều tra, kiểm soát Triều Tiên. Với Philippines, cơn bão Hai Yan đã cho thấy Mỹ là lực lượng phản ứng nhanh nhất trong công tác cứu hộ. Đồng thời, quân đội Mỹ luôn kè kè bên cạnh Philippines khiến Trung Quốc muốn nuốt Biển Đông mà không trọn.
 
Hành động trực diện từ Mỹ còn mang một ý nghĩa quan trọng. Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ đều đang tranh giành sự ảnh hưởng và tạo ấn tượng với các quốc gia Đông Nam Á. Đồng thời, ASEAN cũng đang vất vả về vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông với Trung Quốc. Các quốc gia nhỏ bé ấy sẽ phải làm gì khi có một ADIZ tương tự trên vùng biển chủ quyền của họ? Ai sẽ là người bênh vực ASEAN?
 
Hành động của Mỹ ngầm cho thấy ai mới là người mạnh thực sự của thế giới, ai đủ sức kìm chế ai? Và các quốc gia nên đặt niềm tin vào đâu. ADIZ mang cho Trung Quốc một sự huênh hoang tạm bợ, nhưng tạo cho Mỹ một cái cớ ngàn năm có một để ghi điểm trong mắt đồng minh.
Nguồn Baodatviet

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013

Mỹ đánh Syria và câu ném đá ao bèo của Việt Nam

Mỹ đánh Syria bất chấp Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc có đồng ý hay không là điều có thể, Mỹ tấn công bằng mọi phương tiện, vũ khí hiện đại nhất thế giới, tấn công trong nhiều ngày hay thậm chí nhiều tháng là điều có thể. Đơn giản là vì Mỹ là cường quốc quân sự số 1 thế giới. Nhưng dùng lực lượng bộ binh tham chiến là điều không thể thì rốt cuộc, kết quả thu được là gì?
Thành ngữ người Việt bắt bài Mỹ
Chiến tranh. Khi vũ khí bom đạn làm xong công việc của nó thì sự xuất hiện của người lính trên chiến trường, làm chủ chiến trường, luôn là dấu hiệu cuối cùng cho thấy chiến tranh hay một chiến dịch quân sự nào đó kết thúc hay chưa.
Dù vũ khí thông minh đến mấy, uy lực đến mấy, nhưng khi không có sự xuất hiện người lính trên chiến trường thì đó chỉ là một cuộc tàn phá vô nghĩa chứ không phải là một cuộc chiến tranh “không có ý thức”.
Nhưng việc Ủy ban đối ngoại Thượng viện Mỹ không cho phép Tổng thống Mỹ Obama sử dụng lực lượng trên bộ tham chiến “trừng phạt” Syria là có lý do của nó.
Đó là tránh dính phải vũ khí hóa học (VKHH) của Syria khi “cố cùng liều thân” đem ra sử dụng.
Tại chiến trường Irac, mặc dù cho rằng Irac đang che dấu vũ khí giết người hàng loạt (đây cũng là nguyên nhân Mỹ tấn công Irac) nhưng lính Mỹ vẫn tham chiến vì hơn ai hết Mỹ thừa biết Irac không có loại vũ khí đó.
Tuy nhiên ở Syria thì khác, VKHH mà Syria có là chắc chắn và quan trọng hơn là Mỹ không biết chắc Syria sử dụng bằng cách nào.
Tấn công Syria đối với Mỹ không thành vấn đề, Syria không thể có cơ hội để ngăn chặn, phản công, kể cả Nga can thiệp. Nhưng vấn đề của Mỹ là sau khi chiến dịch kết thúc thì tình hình Syria sẽ diễn biến ra sao mới cần suy nghĩ cẩn trọng.
Thật ra, Mỹ trừng phạt Syria không đơn thuần là để “răn đe, ngăn ngừa không cho chính quyền Tổng thống Assad tái phạm lần nữa…” mà là lật đổ chế độ này, dựng lên một chế độ khác thân Mỹ.
Kết quả của đòn tấn công của Mỹ sẽ xảy ra 2 tình huống:
Một, lực lượng chính phủ của Tổng thống Asssad bị đánh quỵ, mất sức chiến đấu hoàn toàn. Lúc này, phe nổi dậy sẽ được hưởng lợi lớn trong “đòn trừng phạt” của Mỹ và chính họ là người lính xuất hiện trên chiến trường và không ai khác ngoài lực lượng phe nổi dậy sẽ làm chủ đất nước.
Tuy nhiên, điều đáng buồn là cái gọi là “lực lượng phe nổi dậy” này giống như một “nồi lẩu”, cho nên đối với Mỹ độ tin cậy không bao giờ cao và họ cũng không tin gì Mỹ, cảnh giác, sẵn sàng “đâm” Mỹ.
Mỹ có chắc rằng VKHH của chính quyền TT Assad không lọt vào tay của “lực lượng phe nổi dậy” mà theo đánh giá “khiêm tốn” của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ là chỉ có 15 đến 20% là thành phần cực đoan, khủng bố?  
Vì vậy, bỏ ra nhiều tiền của khi tấn công Syria, trừng phạt lực lượng chính phủ của Tổng thống Assad xong rồi “để đấy” cho “lực lượng phe nổi dậy” làm chủ là điều Mỹ chưa dám, là sự đặt cược quá lớn không thể chấp nhận.
Hai, đòn tấn công của Mỹ không thể đánh quỵ được lực lượng của Tổng thống Assad hay tổn thất mà Tổng thống Assad gánh chịu chưa đủ để cho lực lượng phe nổi dậy áp đảo hoàn toàn sau khi đòn tấn công kết thúc.
Nên nhớ là không chỉ riêng “lực lượng phe nổi dậy”, chính phủ Syria của Tổng thống Assad cũng nhận được sự ủng hộ từ các “đội quân quốc tế”.
Đầu tiên có thể kể đến là Lực lượng Vệ binh cách mạng I-ran (IRGC). Vai trò của họ không phải là để chiến đấu mà là hỗ trợ kỹ thuật cho quân đội Syria trong các lĩnh vực tình báo, chiến thuật và hậu cần. Khi cuộc xung đột giữa quân đội chính phủ và phe đối lập trở nên ác liệt, IRGC còn cung cấp thêm vũ khí và đạn dược.
Ngoài ra, Syria còn nhận được sự ủng hộ của lực lượng Hezbollah ở Li-băng. Hơn 10.000 thành viên Hezbollah đang chiến đấu tại Syria và đã hỗ trợ quân đội của Tổng thống Assad chiếm lại khu vực quan trọng Latakia cũng như thành phố Homs từ tay lực lượng đối lập.
Ngày 29/8, Hezbollah đã tuyên bố tình trạng báo động và bắt đầu triển khai quân tới miền Nam Li-băng, giáp biên giới với Syria, sẵn sàng hỗ trợ Tổng thống Assad trong trường hợp phương Tây can thiệp quân sự vào nước này.
Bên cạnh đó, nguồn tin rò rỉ từ Tehran cho biết, khoảng 1.500 chiến binh "Lữ đoàn Badr" ở I-rắc đang có mặt gần Đa-mát và sẵn sàng xung trận khi nhận được lời cầu viện từ phía chính quyền Tổng thống Assad.
Các lực lượng này chỉ cần Mỹ tuyên bố kết thúc chiến dịch là lập tức tràn vào Syria hỗ trợ cho Tổng thống Assad ngay tức khắc (chưa tính đến lực lượng Nga đang ém sẵn trên các con tàu đổ bộ hay căn cứ cảng Tartus để xư lý tình huống bất trắc).
Lúc này, rõ ràng là đòn tấn công của Mỹ trở nên vô nghĩa, vô ích. Người Việt Nam có câu “ném đá ao bèo” là rất chính xác cho trường hợp này.
Ném hàng trăm quả tên lửa, tồn hàng trăm triệu USD rồi đâu cũng vẫn vậy.
Đặt Mỹ vào hai lựa chọn
Có lẽ đây là hy vọng, là đối sách của lực lượng quân đội của Tổng thống Assad. Họ làm sao giảm tối thiểu tổn thất khi Mỹ tấn công bằng cách sơ tán, che giấu lực lượng để sẵn sàng cho cuộc đối đầu với lực lượng phe nổi dậy hơn là Mỹ.

Như vậy, chưa tính đến tác động của đòn tấn công vào Syria đến toàn bộ khu vực Trung Đông mà ngay tại Syria cũng đặt Mỹ vào 2 lựa chọn khó khăn.
Một là có nên đặt cược quá lớn vào lực lượng phe nổi dậy hay không? Nếu không cẩn trọng Mỹ tự rước hiểm họa vào cho mình, không chừng Mỹ muốn tránh vỏ dưa thì gặp vỏ dừa.
Hai là nếu chấp nhận lực lượng phe nổi dậy thì “trừng phạt” với “liều lượng” bao nhiêu để chính quyền Tổng thống Assad mất sức chiến đấu, tạo điều kiện cho “lực lượng phe nổi dậy” dễ dàng “thu dọn chiến trường”?
Nếu chưa “đủ đô” đã dừng thì như “ném đá ao bèo”. Và, liệu có chắc chắn là một cuộc tấn công trừng phạt có giới hạn này thì chính quyền của Tổng thống Assad sẽ sụp đổ?.
Có vẻ như Mỹ đã lựa chọn cách để dừng cuộc chơi, thay vì như bình luận của Đất Việt trong bài viết “Tuyên bố sắc lạnh của Nga khiến Mỹ đắn đo, lựa chọn”, rằng:
“Sẽ rất đơn giản để Mỹ dừng cuộc chơi một cách đàng hoàng, bảo toàn danh dự khi chấp nhận kết quả điều tra của phái đoàn LHQ công bố là, “sử dụng VKHH không phải do quân đội của Tổng thống Assad” thì nay Mỹ ra điều kiện nặng hơn là: Chính quyền Tổng thống Assad phải nộp toàn bộ VKHH thì khỏi bị tấn công “trừng phạt”.
Nếu như mục tiêu đòn tấn công vào Syria như Ủy ban đối ngoại Thượng viện Mỹ đặt ra là “…để ngăn chặn không cho Syria thực hiện lần khác” thì xin chúc mừng nước Mỹ và Tổng thống Obama. Lần đầu tiên trong lịch sử, Mỹ thắng lợi trọn vẹn trong một cuộc chiến tranh “vì an toàn cho sự sống của nhân dân thế giới” mà không tốn một viên đạn, một giọt máu.
Bóng đến chân Syria
Trong vấn đề hạt nhân Triều Tiên, Mỹ buộc Triều Tiên phải ngừng và hủy bỏ VKHN mới ký hiệp định hòa bình, không xâm lược, trong khi Triều Tiên thì yêu cầu ngược lại ký xong rồi tiến hành hủy bỏ. Rõ ràng là Mỹ muốn gây căng thẳng với Triều Tiên chứ chưa muốn Triều Tiên hủy bỏ VKHN.
Trong vấn đề Syria thì lại có dấu hiệu khác, tính chất khác. Mỹ tuyên bố rõ ràng là là nếu nộp toàn bộ VKHH thì khỏi bị tấn công.
Vì vậy, chúng ta có quyền hy vọng sau khi chính quyền Tổng thống Assad nộp hết VKHH thì Mỹ không tấn công trực tiếp vào Syria.
Tuy nhiên, chính quyền Tổng thống Assad có tin Mỹ hay không, có đủ khả năng vượt qua được đòn tấn công của Mỹ để giữ lại VKHH làm công cụ răn đe các nước khác hay không lại là chuyện chỉ có Syria mới có câu trả lời chính xác.
Quả bóng đã chuyền đến chân Syria.
Lê Ngọc Thống

Chủ Nhật, 13 tháng 1, 2013

Trung-Nhật: Đêm trước của cuộc chiến vì an ninh trên biển

Hàng hải là tuyến đường biển để cho tàu thuyền của các quốc gia có biển đi lại, giao thương. Trên thế giới có nhiều quốc gia nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào tuyến hàng hải. Bởi vậy, bảo vệ an toàn cho tàu thuyền của mình qua lại, thông thương trên tuyến hàng hải này là chiến lược cực kỳ quan trọng nếu như không muốn quốc gia lệ thuộc vào ai.
Senkaku/Điếu Ngư – chiêu bài và phép thử
Thật ra, dù có hiếu chiến đến mấy thì không thể nào Trung-Nhật xảy ra cuộc chiến tranh chấp Sekaku/Điếu Ngư.
Với Trung Quốc, Senkaku/Điếu Ngư chỉ là phép thử.
Trung Quốc muốn thử liên minh quân sự Mỹ-Nhật nó lỏng lẻo đến đâu khi một thời gian dài đảng cầm quyền Nhật Bản đã lạnh nhạt, gây tổn hại và nắn gân Nhật Bản buộc Nhật Bản phải nhân nhượng trước áp lực của nền kinh tế bị suy sụp. Trung Quốc muốn biết thái độ, khả năng của Nhật đến đâu và quan trọng nhất là đánh giá lời nói và hành động của Mỹ trên khu vực châu Á-TBD.
Cái Trung Quốc cần biết đã biết, thứ nhất là Mỹ không mặn mà gì với Senkaku. Khi Trung Quốc “chơi rắn”, Mỹ lúc thì tuyên bố đứng bên ngoài, không can thiệp, khi thì Senkaku nằm trong hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật.
Thứ hai là chính phủ Nhật Bản không có bản lĩnh trong xử lý. Và, điều rút ra: Nhân nhượng Trung Quốc là vấn đề thời gian.
Điều tai hại nguy hiểm từ Senkaku/Điếu Ngư mà Trung Quốc không lường hết là quá lạm dụng chủ nghĩa dân tộc cho nên không làm chủ được tình hình, khi tình thế đã thay đổi không có lợi thì không có đường lùi.
Rõ ràng, quần đảo này ai cũng biết, địa chính trị, quân sự và kinh tế đối với Trung Quốc không đến mức vì nó mà sẵn sàng xung đột, thậm chí chiến tranh, nhưng khi tình hình thực tế đã xảy ra như thế nên Trung Quốc không thể điều chỉnh, bởi chủ nghĩa dân tộc đã tạo ra cho chính phủ một áp lực lớn. Đây là một sai lầm mà Mỹ, Nhật Bản lợi dụng để triển khai một loạt chính sách bao vây, cô lập Trung Quốc…
Senkaku với Nhật Bản dùng làm chiêu bài.
Thật ra đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ), cầm quyền với chính phủ của Thủ tướng Yoshihiko Noda quốc hữu hóa quần đảo Senkaku là bắt buộc, không phải có ý thách thức với Trung Quốc mà hành động này nhằm ngăn kế hoạch mua và phát triển quần đảo của Thống đốc Tokyo Shintaro Ishihara vốn có thể khiến Trung Quốc càng thêm giận dữ và tình hình còn tồi tệ hơn nếu nó được thực hiện.
Nước cờ này là của đảng đối lập Dân chủ Tự do Nhật Bản (LDP) đứng đầu là ông Shinzo Abe hay tình cờ của ngài Thị trưởng Tokyo, hay với bàn tay của Mỹ… thì không ai biết. Chỉ biết rằng chính từ vụ tranh chấp Senkaku-cú đánh cuối cùng, mà đảng cầm quyền (DPJ) thất bại thảm hại. Đảng Dân chủ Tự do LDP theo đường lối dân tộc chủ nghĩa thắng lợi giòn giã, ông Shinzo Abe lên làm Thủ tướng.
Senkaku, đến lúc này thì Mỹ lại tuyên bố thẳng thừng Senkaku là của Nhật Bản, nằm trong đối tượng điều chỉnh của Hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật…bằng giấy trắng mực đen hẳn hoi. Nghĩa là nếu Trung Quốc tấn công Senkaku thì Mỹ sẽ hỗ trợ quân sự cho Nhật. (Dấu hiệu Mỹ dùng Sekaku gây sức ép và không ưu chuộng gì sự cầm quyền của DPJ Nhật Bản).
Senkaku, trong vấn đề đối nội đã trở thành một nguyên nhân, một bàn đạp cho chính sách quốc phòng mới của Thủ tướng Shinzo Abe, bình thường hóa quân đội, tăng ngân sách quốc phòng, tái vũ trang…
Senkaku được Nhật Bản phất lên như là một lá cờ chính nghĩa để tập hợp lực lượng, đến mức sự hồ nghi về mầm mống trỗi dậy của chủ nghĩa quân phiệt Nhật cũng không còn trong các quốc gia từng là nạn nhân.
Có thể nói, Senkaku/Điếu Ngư, Nhật Bản cũng chỉ là “con tốt giữa” của 2 bên, nhưng Nhật Bản đã đẩy được con tốt ấy sang sông và trở nên cứng rắn, quyết liệt với Trung Quốc hơn bao giờ hết.
Tầu chiến Nhật và tầu Trung Quốc rượt đuổi nhau trên biển Hoa Đông

Đối tượng tác chiến trực tiếp chiến lược Trung-Nhật
Nếu như trước đây khi chưa phát triển mạnh, Trung Quốc không những tự tự túc được nguồn năng lượng mà còn xuất khẩu sang láng giềng thì đến năm 1993 sau khi đẩy mạnh sản xuất và hoạt động ngoại thương, Trung Quốc đã từ nhóm nước cung cấp nguồn năng lượng sang nhóm nước nhập khẩu dầu mỏ. Từ năm 2003, Trung Quốc đứng thứ hai thế giới trong nhóm nước này, chỉ sau Mỹ.
Điều đáng lưu tâm là kể cả ngoại thương, Trung Quốc hoàn toàn phụ thuộc vào đường biển chẳng khác nào như một đảo quốc.
Nhật Bản thì tệ hơn Trung Quốc nhiều, nền kinh tế không những phụ thuộc vào năng lượng dầu mỏ mà cả nguyên vật liệu công nghiệp. Và tất nhiên, Nhật Bản là một đảo quốc thật sự không cần bàn cãi.
Con đường biển chủ yếu mà Trung Quốc giao thương (Trung Quốc gọi là “Liên Châu” hay “Chuỗi ngọc trai”) là tuyến chạy qua vịnh Persique, Ấn Độ Dương, eo biển Malacca và Biển Đông.
Nhật Bản, giao thương cũng không ngoài tuyến hàng hải đó.
Riêng trên biển Đông, có hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển thì 45% trong số đó phải đi qua vùng Biển Đông. Lượng dầu lửa và khí hoá lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn gấp 15 lần lượng chuyên chở qua kênh đào Panama.
Khu vực Biển Đông có những eo biển quan trọng đối với nhiều nước, với 4 trong 16 con đường chiến lược của thế giới nằm trong khu vực Đông Nam Á (Malacca, Lombok, Sunda, Ombai - Wetar). Đặc biệt eo biển Malacca là eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới (sau eo biển Hormuz).
Nếu như Trung Quốc có 29/39 tuyến đường hàng hải và khoảng 60% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển qua Biển Đông thì hàng năm có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và khoảng 45% khối lượng hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản cũng được vận chuyển qua Biển Đông…
Nói sơ sơ như vậy cũng đủ để chứng tỏ một điều: Trung Quốc và Nhật Bản đều có tuyến hàng hải trùng nhau, đồng thời tuyến hàng hải cũng là con đường quyết định sự sống còn của 2 nền kinh tế. Cho nên, nếu Trung Quốc hoặc Nhật Bản khống chế được tuyến hàng hải này thì ít nhất sẽ có sự lệ thuộc vào nhau.
Điều đáng nói là từ trước đến nay Trung, Nhật chưa ai khống chế được tuyến hàng hải quan trọng này. Việc bảo vệ an toàn hàng hải trên tuyến này là Hải quân Mỹ.
Nhật Bản dựa vào sự bảo trợ của quân đội Mỹ để giải quyết các vấn đề an ninh cho hoạt động vận chuyển hàng hóa đường biển của mình.
Dĩ nhiên, để đổi lấy sự bảo trợ đó, thì Nhật buộc phải nhượng bộ Mỹ cả trong lĩnh vực chính trị lẫn kinh tế hay không thì không rõ, nhưng dù sao, Mỹ-Nhật là đồng minh chiến lược với nhau nên vấn đề không đến mức nhức nhối để Mỹ  phải sử dụng miếng đánh hiểm này.
Còn Trung Quốc, cũng vậy thôi, một cái thòng lọng sẵn sàng thít vào cổ bất cứ lúc nào Mỹ cho là cần thiết.
Để cắt bỏ sợi dây thòng lọng này, ngoài việc tuyên bố hơn 80% diện tích biển Đông là của mình, Trung Quốc buộc phải thành lập rất nhiều nhóm tàu sân bay để bảo vệ tuyến hàng hải dài, để giành quyền kiểm soát hoạt động nhập khẩu dầu mỏ bằng đường biển khi có vấn đề xảy ra.
Nhưng như vậy có nghĩa là thách thức Mỹ, chắc chắn đối đầu với Mỹ mà trước hết kẻ bị ảnh hưởng, tổn thương, bị uy hiếp nhiều nhất là không ai ngoài Nhật Bản.
Giả sử Trung Quốc kiểm soát được tuyến hàng hải này, đương nhiên, cũng như Mỹ hiện tại vẫn ra rả tuyên bố “tự do hàng hải” nhưng khi Trung Nhật căng thẳng hay xảy ra xung đột thì khóa chặt tuyến hàng hải này là điều tất yếu, xin đừng hỏi tại sao. Và hậu quả như nào thì Nhật Bản quá hiểu.
Ngược lại nếu như Nhật Bản và Mỹ cùng khống chế tuyến hàng hải này thì Trung Quốc chưa thể “thích gì làm nấy” được.
Sự trở lại châu Á-TBD của Mỹ là để kiềm chế Trung Quốc nhưng với một sách lược không “bao cấp” mà buộc đồng minh chia xẻ trách nhiệm.
Mỹ không bảo vệ lợi ích quốc gia khác bằng lính Mỹ ngoại trừ của chính mình. Chính vì thế, Mỹ yêu cầu Nhật Bản phải có trách nhiệm cao hơn.
Nhật Bản là quốc đảo, nếu Trung Quốc như đã phân tích trên cũng như là quốc đảo thì tuyến hàng hải huyết mạch được coi như cung cấp máu cho tim hoặc đây là tuyến đường mà bắt buộc phải đi qua để uống. Nhịn ăn có thể 7 ngày, nhưng nhịn uống thì không được như vậy, ít ngày lắm.
An ninh hàng hải với Nhật Bản là sự sống còn của nền kinh tế, do đó cũng là sự sống còn của an ninh quốc gia. Nhật Bản buộc phải cứng rắn, không nhân nhượng và làm tất cả những gì có thể để bảo vệ an ninh quốc gia.
Chẳng có gì khó hiểu khi Nhật thân thiện với Nga, Hàn Quốc (và Mỹ thì khỏi phải bàn), chẳng có gì khó hiểu khi Nhật Bản tăng cường quan hệ với ASEAN đặc biệt là Philipines, Việt Nam…
Rốt cuộc, sự đụng độ trên khu vực châu Á-TBD, nói cách khác Nhật Bản là nước mà Trung Quốc phải đối đầu nếu muốn “vượt qua vòng loại”, là đối tượng tác chiến trực tiếp của nhau.
Làm sao gọi là một cường quốc biển khi mà không đủ sức bảo vệ thông thương trên các tuyến hàng hải của mình. Nhưng để khống chế, kiểm soát tuyến hàng hải “Liên Châu”, Trung Quốc phải làm rất nhiều việc mà có rất nhiều láng giềng không thích và chống phá, đặc biệt là Nhật Bản.
Senkaku mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư chỉ là đêm trước những điều tồi tệ vì an ninh hàng hải quyết liệt sắp xảy ra.
  • Lê Ngọc Thống
  • Nguồn Baodatviet


Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2013

TQ không sợ bị bắn cảnh cáo, Nhật Bản xây đường băng thứ hai ở Okinawa


Đây là nỗ lực tiếp theo của Tokyo đối phó với các hành động leo thang đòi chủ quyền của TQ đối với nhóm đảo Senkaku đang do Nhật kiểm soát thực tế.

Máy bay chiến đấu thế hệ thứ ba J-10 của Không quân Trung Quốc, có trọng lượng cất cánh tối đa hơn 18 tấn, hành trình tối đa, bán kính tác chiến hơn 1.000 km
 Leo thang tranh chấp
Hãng Kyodo Nhật Bản dẫn lời quan chức Bộ Quốc phòng nước này tiết lộ, trưa ngày 10/1, sau khi phát hiện vài máy bay chiến đấu Trung Quốc xâm nhập “khu vực nhận biết phòng không” của Nhật Bản trên bầu trời biển Hoa Đông, Lực lượng Phòng vệ Trên không Nhật Bản đã điều máy bay chiến đấu F-15 thuộc căn cứ Naha khẩn cấp bay lên ứng phó. Máy bay Trung Quốc đã nhanh chóng bay khỏi khu vực này, không bay vào không phận Nhật Bản.
Quan chức này cho biết, những máy bay chiến đấu Trung Quốc xâm nhập khu nhận biết phòng không gồm có máy bay J-7 và J-10.
Tháng 12/2012, một máy bay của Cục Hải dương Quốc  gia Trung Quốc đã xâm phạm không phận Nhật Bản ở quần đảo Senkaku, sau đó liên tục có máy bay Trung Quốc bay ở khu vực lân cận. Bộ Quốc phòng Nhật Bản đang tăng cường cảnh giới, chưa đưa ra tuyên bố “không thuộc trường hợp đặc biệt” đối với sự kiện lần này.
Hãng AFP dẫn nguồn tin từ truyền thông Nhật Bản cho rằng, vào thứ Năm vừa qua, Nhật Bản khẩn cấp điều động máy bay chiến đấu để ngăn chặn máy bay quân sự Trung Quốc xâm nhập khu vực lân cận “đảo tranh chấp”.
Không quân Trung Quốc cho cất cánh máy bay chiến đấu J-10 ở sân bay Hoa Bắc.
 Đài truyền hình Fuji dẫn lời quan chức Chính phủ Nhật Bản cho biết, radar quân sự Nhật Bản đã phát hiện nhiều máy bay chiến đấu Trung Quốc ở phía bắc quần đảo Senkaku do Nhật Bản kiểm soát thực tế. Những máy bay chiến đấu này không xâm phạm không phận Nhật Bản, nhưng đã xâm nhập khu nhận biết phòng không của Nhật Bản.
Theo bài báo, khi Nhật Bản điều máy bay chiến đấu tới khu vực này, máy bay chiến đấu Trung Quốc đã rời khỏi. Hành động của máy bay Trung Quốc đã kéo dài liên tục đến khoảng 5 giờ chiều.
Tờ “Nam Hoa buổi sáng” Hồng Kông cho rằng, Nhật Bản có thể cho phép máy bay tiến hành “bắn cảnh báo” đối với máy bay Trung Quốc. Bộ Ngoại giao Trung Quốc đáp lại bằng tuyên bố rằng, họ kiên quyết phản đối “hành vi xâm phạm chủ quyền của Nhật Bản ở vùng biển và vùng trời đảo Điếu Ngư, duy trì cảnh giác cao độ đối với hành động leo thang của Nhật Bản”.
Chuyên gia Lưu Giang Vĩnh, Đại học Thanh Hoa Trung Quốc tự tin cho rằng, Trung Quốc sẽ không cảm thấy phiền phức khi Nhật Bản bắn cảnh báo. Ông nói: “Máy bay quân sự Trung Quốc sẽ không sợ điều đó, sẽ tiếp tục bay đến nơi họ muốn đến, kể cả bầu trời đảo Senkaku”.
Tờ “Liên hợp Buổi sáng” Singapore dẫn lời Yoshihide Suga, Chánh văn phòng Nội các Nhật Bản phủ nhận quan điểm “Nhật Bản sẽ tiến hành bắn cảnh báo đối với máy bay tuần tra Trung Quốc”, cho biết Nhật Bản không muốn làm tình hình leo thang.
Đảo Senkaku hiện do Nhật Bản kiểm soát thực tế.
 Shinzo Abe thúc đẩy tăng cường sẵn sàng chiến đấu
Tờ “Asahi Shimbun” Nhật Bản cho biết, vào tuần tới, Nhật-Mỹ bắt đầu sửa đổi “Phương châm hợp tác phòng vệ Nhật-Mỹ”.

Căn cứ vào chỉ thị của Shinzo Abe vào cuối năm 2012, chính phủ hai nước sẽ tổ chức hội đàm quan chức ngoại giao và quốc phòng vào ngày 16/1 tại Tokyo. Cuộc hội đàm này sẽ luận chứng cho vấn đề bỏ lệnh cấm “quyền tự vệ tập thể” mà Thủ tướng ủng hộ.
Nguyên nhân quan trọng nhất sửa đổi phương châm là để ứng phó với việc tăng cường quân bị và hoạt động trên biển của Trung Quốc, cùng với sự phát triển hạt nhân và tên lửa của CHDCND Triều Tiên.

Chiến lược coi trọng châu Á của chính quyền Obama và việc Trung Quốc liên tục gây sức ép với Nhật Bản trong vấn đề đảo Senkaku đều trở thành nguyên nhân thúc đẩy Nhật Bản sửa đổi phương châm.
Một trong những nhân tố quyết định hai bên bàn thảo phương hướng chính là việc dỡ bỏ lệnh cấm quyền tự vệ tập thể như mong muốn của Thủ tướng.

Hiến pháp Nhật Bản cho rằng, Nhật Bản không được thực hiện quyền tự vệ tập thể, nhưng Thủ tướng hy vọng chuyển sang cho phép thực hiện quyền tự vệ tập thể, nhằm làm trụ cột cho việc tăng cường đồng minh Nhật-Mỹ.

Một khi cho phép thực hiện quyền tự vệ tập thể, vai trò của Lực lượng Phòng vệ sẽ có sự thay đổi to lớn. Thủ tướng cũng luôn muốn tăng cường Lực lượng Phòng vệ.
Nhật-Mỹ tăng cường khả năng tác chiến liên hợp. Trong hình là Nhật-Mỹ diễn tập đoạt đảo ở Guam, mô phỏng tình huống đảo Senkaku bị xâm lược.
 Theo tờ Sankei Shimbun, ngày 9/1, chính phủ và đảng cầm quyền quyết định nghiên cứu bổ sung chi 20 tỷ yên (khoảng 228 triệu USD) ngân sách để đẩy nhanh tiến độ “xây dựng đường băng thứ hai” ở sân bay Naha tại tỉnh Okinawa. 

Ngân sách năm tài khóa đã đưa ra một phần vốn có liên quan. Tổng số chi phí xây dựng đường băng thứ hai khoảng 210 tỷ yên, dự định hoàn thành trong 7 năm. Chính phủ hy vọng sẽ rút ngắn thời hạn công trình xuống 5 năm.
Sân bay Naha là sân bay được hợp tác sử dụng giữa công ty hàng không và Lực lượng Phòng vệ. Sau khi tăng thêm đường băng, có thể giảm mật độ cất/hạ cánh, nâng cao độ an toàn.

Ở biển Hoa Đông, máy bay Trung Quốc liên tục tiến hành bay thấp xâm phạm không phận Nhật Bản. Lực lượng Phòng vệ Trên không phải tăng số lần cất cánh khẩn cấp. Chính phủ Nhật Bản cũng hy vọng tăng thêm đường băng để tăng cường khả năng phòng vệ.
Báo Nhật kêu gọi không sợ đối đầu với Trung Quốc
Tờ Sankei Shimbun nhấn mạnh, 4 tàu hải giám Trung Quốc xâm phạm lãnh hải vùng biển đảo Senkaku đã 13 tiếng, “nhắm mắt làm ngơ” trước sự cảnh báo của Nhật Bản.

“Hành động gây hấn của Trung Quốc đã bước vào giai đoạn mới, nếu Nhật Bản không áp dụng biện pháp chống lại rõ ràng, cuộc khủng hoảng e rằng sẽ chỉ có thể tiếp tục leo thang”.
Tàu Hải giám 137 là tàu hải giám mới trang bị cho Tổng đội Đông Hải (Trung Quốc) vào ngày 14/11/2012
 Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nhật Bản Akitaka Saiki đã triệu tập Đại sứ Trung Quốc là Trình Vĩnh Hoa để đưa ra phản đối nghiêm khắc, nhưng phản đối không có nghĩa là kết thúc.
Hành động dùng sức mạnh để đe dọa không chỉ có vậy. Máy bay tuần tra của Cục Hải dương Quốc gia Trung Quốc còn nhiều lần xâm phạm không phận, máy bay quân sự cũng nhiều lần tiến hành xâm phạm tầm thấp đối với không phận Nhật Bản.
Với mục đích dựa vào vũ lực để chiếm đoạt quần đảo Senkaku, trong tương lai, Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục cố tình xâm phạm lãnh hải và không phận của Nhật Bản. Mục tiêu của Trung Quốc rất rõ ràng, đó là muốn Nhật Bản phải thừa nhận hai nước đang tồn tại vấn đề lãnh thổ và phải triển khai đàm phán ngoại giao.
Đường lối ngoại giao đối với Trung Quốc trong 3 năm cầm quyền của Đảng Dân chủ Nhật Bản rõ ràng cho thấy, “chủ nghĩa được chăng hay chớ” lo sợ kích động Trung Quốc cuối cùng sẽ gây thiệt hại cho chủ quyền lãnh thổ. Nếu Trung Quốc tiếp tục tiến hành các hoạt động đe dọa, thì Nhật Bản phải áp dụng một loạt biện pháp, trong đó có triệu tập Đại sứ Trung Quốc.
Trong thời gian bầu cử Hạ viện, ông Shinzo Abe luôn chủ trương điều nhân viên công vụ tới quần đảo Senkaku. Trong cương lĩnh tranh cử, Đảng Tự do Dân chủ cũng đề xuất “tập trung triển khai cảnh sát, quan chức bảo vệ bờ biển và lực lượng phòng vệ ở các hòn đảo tây nam”. Kế hoạch đóng quân ở Yonaguni cần được đẩy nhanh thực hiện.
 Tình hình hiện nay vẫn cần Lực lượng bảo vệ bờ biển duy trì ý chí kiên cường. Vấn đề là nếu Trung Quốc điều hàng loạt tàu cá có vũ trang, Lực lượng bảo vệ bờ biển phải chăng sẽ tiếp cận tối đa, Nhật Bản đã chuẩn bị tốt để đề phòng “sự cố xảy ra ở Senkaku” hay chưa?
Chính phủ Nhật Bản đã quyết định tăng chi tiêu quốc phòng năm 2013. Số tiền bổ sung 100 tỷ yên cũng có kế hoạch chủ yếu dùng để hỗ trợ cho lực lượng đổ bộ phòng thủ đảo Senkaku.

Chính quyền Abe cần nhanh chóng xây dựng luật ứng phó với tình hình sự cố có thể xảy ra, vấn đề quan trọng nhất chính là xây dựng “Luật phòng thủ lãnh hải” để có thể tiến hành cưỡng chế, trục xuất đối với các hành vi xâm phạm lãnh hải.

Ngoài ra, để tiếp tục tăng cường hợp tác Nhật-Mỹ, Nhật Bản cần đẩy nhanh xây dựng “Luật cơ bản bảo đảm an ninh quốc gia”, tạo cơ sở để dỡ bỏ lệnh cấm quyền tự vệ tập thể.
Khả năng bảo vệ đảo Senkaku của tàu Nhật Bản
Tờ Sankei Shimbun cho biết, đến cuối tháng 11/2012, trong toàn bộ 357 tàu tuần tra của Lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản có 74 tàu đã quá hạn sử dụng, chiếm khoảng 20%. Để ứng phó với tàu công vụ Trung Quốc thường xuyên xâm phạm vùng biển quần đảo Senkaku, Lực lượng bảo vệ bờ biển muốn thông qua kéo dài tuổi thọ để vượt qua khó khăn.
 Theo bài báo, chỉ có chế tạo 15 tàu mới mỗi năm thì mới có thể đuổi kịp tốc độ nghỉ hưu của các tàu hiện có. Nhưng do nguồn tài chính của Trung ương gặp khó khăn, hiện mỗi năm nhiều nhất chỉ có thể chế tạo được khoảng 10 chiếc.
Lực lượng bảo vệ bờ biển đứng trước một nhiệm vụ mới là ứng phó với tàu công vụ Trung Quốc trên vùng biển quần đảo Senkaku. Hiện nay, ngoài tình hình thời tiết khắc nghiệt, hàng ngày Lực lượng bảo vệ bờ biển triển khai khoảng 5 tàu tuần tra ở vùng biển Senkaku, thường xuyên theo dõi chặt chẽ đối với tàu công vụ Trung Quốc.
Trong giai đoạn hiện nay, Lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản chuẩn bị thông qua các biện pháp như sửa chữa lại tàu tuần tra cũ, kéo dài thời gian hoạt động để duy trì và mở rộng lực lượng tuần tra. Nhưng đây chỉ là “kế tạm thời”. Quan chức Lực lượng bảo vệ bờ biển cho biết, đây là một vấn đề gây đau đầu.
Tờ Yomiuri Shimbun Nhật Bản cho rằng, tàu công vụ Trung Quốc liên tục xâm phạm lãnh hải Nhật Bản, trong đó một chiếc xâm phạm ngày 7/1 là loại tàu chiến nghỉ hưu được cải tạo lại, đội lốt tàu dân sự, có lượng giãn nước khoảng 3.000 tấn.

Theo báo chí Trung Quốc, tàu hải giám được cải tạo từ tàu chiến nghỉ hưu có tổng cộng 11 chiếc. Quân đội Trung Quốc và Cục Hải dương nước này đang hợp tác chế tạo tàu cỡ lớn có thể hoạt động ở biển xa để tiếp tục tăng cường sức mạnh ở biển Hoa Đông và biển Đông.
Trong số các tàu Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Nhật Bản ngày 7/1 có tàu Hải giám 137. Con tàu này từng tham gia các hoạt động ở khu vực biển Hoa Đông vào tháng 11/2012, tiền thân của nó là tàu kéo biển xa của Hải quân Trung Quốc.

Ngoài ra, Cục Hải dương Quốc gia Trung Quốc còn sở hữu 10 tàu chiến nghỉ hưu khác như tàu khu trục Nam Kinh, Nam Ninh, tàu phá băng, tàu khảo sát.
Đến tháng 11/2012, Cục Hải dương Quốc gia Trung Quốc sở hữu hơn 400 tàu, trong đó có 29 tàu lớp trên 1.000 tấn, ngoài ra còn có 10 máy bay. Cục Hải dương đang tập trung chế tạo tàu hải giám lớp trên 1.000 tấn, trong 10 năm sau năm 2000 đã chế tạo được 13 chiếc, đồng thời có kế hoạch chế tạo 36 chiếc trong 5 năm kể từ năm 2011.
Cục ngư nghiệp Bộ Nông nghiệp Trung Quốc cũng sẽ cải tạo một bộ phận tàu cứu nạn và tàu khảo sát thành tàu ngư chính, điều đến biển Đông và vùng biển Senkaku để hoạt động.
Nguồn Baogiaoduc

Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

Cố vấn Thủ tướng Nhật: Nếu xung đột Senkaku nổ ra,Nhật sẽ đánh bại TQ

Tình hình Đông Bắc Á hiện nay rất phức tạp với các mối quan hệ gai góc, nhất là quan hệ Trung-Nhật xoay quanh chủ quyền quần đảo Senkaku.
 Tờ “Thời báo Tài chính” Anh vừa đăng bài viết “Nhìn lại lịch sử quan hệ 4 nước Đông Á” cho rằng, trong một khoảng thời gian không dài, 3 nước lớn ở Đông Bắc Á đã lần lượt bầu ra các nhà lãnh đạo mới. Tháng 11/2012, Đảng Cộng sản Trung Quốc tiến hành chuyển giao thế hệ lãnh đạo, ông Tập Cận Bình lên làm Tổng Bí thư. Trong khi đó, ông Shinzo Abe, lãnh đạo đảng Tự do Dân chủ Nhật Bản cũng vừa giành được cơ hội lên làm Thủ tướng lần hai ở Nhật Bản.
Vào thứ tư tuần qua, Hàn Quốc cũng đã bầu ra nữ Tổng thống đầu tiên trong lịch sử Hàn Quốc, bà Park Geun-hye. Nếu tính cả ông Kim Jong-ul lên nắm quyền ở CHDCND Triều Tiên vào năm 2011 nữa, thì khu vực có tình hình căng thẳng nhất trên thế giới này có tổng cộng 4 nhà lãnh đạo mới lên cầm quyền.
Ông Shinzo Abe là cháu ngoại của Kishi Nobusuke, một thành viên nội các thời Thế chiến II. Kishi Nobusuke từng trợ giúp thống trị nước Mãn Châu dưới sự chiếm đóng của Nhật Bản. Đây là một cuộc đấu tranh gia tộc mạnh mẽ, thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước.
 Bà Park Geun-hye cũng có những dấu ấn lịch sử sâu sắc. Bà là con gái của cựu lãnh đạo Park Chung-hee, Hàn Quốc. Năm 1961, Park Chung-hee đã thông qua chính biến để lên cầm quyền, năm 1979 bị ám sát. 

Trong nhiệm kỳ của ông, kinh tế Hàn Quốc đã trỗi dậy mạnh mẽ. Ứng cử viên Tổng thống phái tự do, ông Moon Jae-in, là con của một người dân tị nạn Triều Tiên, đã bị Park Chung-hee đánh bại. Thời sinh viên, Moon Jae-in là một nhân sĩ dân chủ, từng bị chính quyền Park Chung-hee giam cầm.
Quan hệ song phương giữa 4 nước này đầy rẫy hận thù, ít nhất có thể nói là đầy biến số. Trong đó, cần phải theo dõi chặt chẽ 3 mối quan hệ.
Thứ nhất là quan hệ giữa hai miền Triều Tiên. Trong thời gian cầm quyền của Tổng thống Lee Myung-bak, người sắp từ nhiệm, quan hệ CHDCND Triều Tiên-Hàn Quốc xấu đi nghiêm trọng. Sự tương phản với chính sách “ánh dương” do một số người tiền nhiệm thúc đẩy là, Lee Myung-bak thực hiện đường lối cứng rắn với CHDCND Triều Tiên.
Sau đó, CHDCND Triều Tiên bị chỉ trích đã bắn chìm một chiếc tàu chiến của Hàn Quốc, khiến cho 46 thuyền viên bị thiệt mạng, đồng thời đã bắn pháo vào đảo của Hàn Quốc.
 CHDCND Triều Tiên cũng đã tiến hành thử hạt nhân lần thứ hai. Dư luận phổ biến cho rằng, đường lối của Lee Myung-bak đã phá sản. Song, thành quả của chính sách ánh dương cũng tương đối có hạn, CHDCND Triều Tiên hoàn toàn không vì vậy mà chấm dứt thử nghiệm hạt nhân lần đầu tiên.
Cho dù như vậy, dự kiến Park Geun-hye vẫn sẽ áp dụng lập trường không cứng nhắc như vậy. Điều có thể tưởng tượng là, bà sẽ sử dụng danh tiếng chủ nghĩa dân chủ của mình để hỗ trợ, thực hiện chính sách linh hoạt hơn, mở ra cục diện như “Nixon thăm Trung Quốc”.

Tuy nhiên, bất kể là Chính phủ Hàn Quốc thúc đẩy thực hiện chính sách nào, dư luận đều không cho rằng CHDCND Triều Tiên sẽ tạm dừng chương trình hạt nhân của họ.
Mối quan hệ thứ hai có thể gai góc là quan hệ Hàn-Nhật. Khi Lee Myung-bak lên cầm quyền 5 năm trước, đã áp dụng thái độ hòa giải với Nhật Bản. Hai bên đã ký 1 thỏa thuận trao đổi tiền tệ và xem xét xây dựng hiệp định thương mại song phương.
Dưới sự thúc đẩy của Chính phủ Mỹ, hai bên tiến gần đến việc đạt một thỏa thuận chia sẻ tin tức tình báo quân sự. Nhưng sau đó, vấn đề lịch sử đã nổi lên. Lee Myung-bak tin rằng Nhật Bản không có lịch sử thức tỉnh đúng đắn.

Ông đã thăm đảo Dokdo hiện đang do Hàn Quốc kiểm soát, Nhật Bản cũng tuyên bố có chủ quyền đối với hòn đảo này và gọi nó là đảo Takeshima. Lee Myung-bak cho rằng, nếu Thiên hoàng Nhật Bản muốn thăm Hàn Quốc, ông trước tiên phải xin lỗi về chiến tranh.
 Sau khi Shinzo Abe lên cầm quyền, quan hệ Hàn-Nhật có thể tiếp tục xấu đi. Abe đã bày tỏ nghi ngờ về việc quân Nhật bắt cóc rất nhiều phụ nữ Hàn Quốc làm nô lệ tình dục trong Chiến tranh thế giới thứ hai. 

Nếu ông thúc đẩy thay đổi cách diễn đạt vấn đề này trong Tuyên bố Kono (Kono apology) năm 1993 thì chắc chắn sẽ gây tức giận cho Hàn Quốc. Mỹ hy vọng hai đồng minh lớn của họ ở khu vực này chung sức hợp tác, đặc biệt là trong vấn đề an ninh. Nhưng lần này Mỹ e rằng sẽ thất vọng.
Sự biến đổi liên tục là quan hệ Trung-Nhật. Nguyên nhân gây căng thẳng quan hệ song phương gần nhất là tranh chấp chủ quyền đối với hòn đảo không người ở Senkaku/Điếu Ngư. Theo phía Trung Quốc thì Nhật Bản đã ăn cắp quần đảo này vào thập niên 90 của thế kỷ 19, lẽ ra phải trả cho Trung Quốc sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai.
Còn Nhật Bản cho rằng, quần đảo này là đất không người ở khi họ phát hiện, do đó thuộc sở hữu của Nhật Bản. Trung Quốc muốn lấy quần đảo này làm bước đi để xóa bỏ sự nhục nhã trong lịch sử, phục hưng dân tộc. Về chiến lược, Trung Quốc muốn dựa vào đó để phá vỡ sự phong tỏa của “chuỗi đảo thứ nhất”, như vậy Hải quân Trung Quốc sẽ có thể vươn ra Thái Bình Dương.
Điều đáng quan tâm hơn là vấn đề lịch sử. Shinzo Abe muốn từ bỏ Hiến pháp hòa bình, tăng chi tiêu quân sự. Một cố vấn của ông thậm chí cho biết, nếu hiện nay Nhật Bản đánh một trận trên biển với Trung Quốc, người chiến thắng sẽ là Nhật Bản. Nhiều năm qua, tình hình Đông Bắc Á chưa từng đáng sợ như hiện nay.
Nguồn Baogiaoduc
/
Lên đầu trang
Vào giữa trang
Xuống cuối trang