Hiển thị các bài đăng có nhãn GIỚI THIỆU VỀ BIỂN ĐÔNG. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn GIỚI THIỆU VỀ BIỂN ĐÔNG. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 14 tháng 2, 2013

Những nông dân vác đá xây đảo ở Trường Sa

Dấu chân người làng Bỉnh Gi đã in khắp các đảo nổi, đảo chìm của quần đảo Trường Sa. Bây giờ nếu có tổ chức một cuộc thi tìm hiểu về quần đảo Trường Sa, chắc người làng Bỉnh Gi sẽ chiếm nhiều giải cao”, ông Nguyễn Văn Đóa, trưởng thôn Bỉnh Gi hóm hỉnh nói.
Những nông dân vác đá
Làng Bỉnh Gi thuộc xã Giao Thịnh (Giao Thủy, Nam Định). Sở dĩ đây được gọi là “Làng xây đảo Trường Sa” vì trong 20 năm qua nơi đây đã đóng góp hàng nghìn lượt công nhân ra xây dựng tại các hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
Trong câu chuyện, ông Đóa cho biết: Hành trình của những người nông dân ra đảo xây dựng gắn liền với hình ảnh của Thiếu tướng Hoàng Kiền, Giám đốc Ban Dự án đường tuần tra biên giới (Bộ Tổng tham mưu, Bộ Quốc phòng). Những năm 1988-1990, khi cả nước phát động phong trào vì Trường Sa, “Tôn nền Tổ quốc”, đồng chí Hoàng Kiền khi đó đang là chỉ huy trưởng một đơn vị công binh Hải quân chuyên nhiệm vụ xây dựng đảo Trường Sa.
Nhận nhiệm vụ, Thiếu tướng Hoàng Kiền băn khoăn, anh em chiến sĩ tràn đầy sức trẻ nhưng tay nghề chưa cao, khó có thể xây nhà cao tầng vừa bền, vừa đẹp theo yêu cầu. Cuối cùng ông nghĩ tới những người thợ tài hoa quê mình - những người nông dân yêu nước, chăm chỉ, nhiệt tình. Nếu biết đặt niềm tin, động viên, tạo điều kiện cho họ đi xây dựng công trình trên đảo thì chắc chắn sẽ thành công.
 “Khi nghe ông Kiền kể chuyện cuộc sống của cán bộ, chiến sỹ Hải quân ngoài đảo khơi khó khăn, thiếu thốn, vất vả, nguy hiểm ra sao, rồi việc xây đảo có ý nghĩa quan trọng như thế nào... dân làng rất cảm động. Đợt đầu có nhiều người đăng ký nhưng ông chỉ chọn ra 7 người có tay nghề cao nhất và có sức khỏe tốt để chống chọi được với nắng gió nơi biển đảo”, ông Đóa nhớ lại.
Thế là những ngày đầu năm 1992, không khí Tết Nguyên đán còn đang tràn ngập khắp xóm ngõ làng Bỉnh Gi thì lớp thanh niên trai tráng đầu tiên trong làng lên đường vào Khánh Hòa để bắt tàu ra xây đảo, mở đầu cho công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của ngôi làng Bỉnh Gi, đồng thời đưa ngôi làng bước sang một vận mệnh mới, nhiệm vụ mới.
Một trong những lớp người đi đầu tiên của làng là anh Phan Văn Bốn, 46 tuổi.  Đã 19 năm liên tiếp, anh Bốn đều có mặt trong những người công nhân làng Bỉnh Gi ra xây dựng tại quần đảo Trường Sa. Tết này, anh Bốn được Công ty cho nghỉ 3 tháng Tết về đón “khoảnh khắc thiêng liêng” trong năm cùng gia đình. Trong căn nhà khang trang, anh cùng người vợ là chị Nguyễn Thị Ngát ngồi kể cho tôi nghe về cuộc sống của mình ngoài đảo xa.
Mười chín năm gắn bó với sóng gió nơi biển đảo được biểu hiện rõ nét qua hình dáng của người đàn ông này. Với thân hình vạm vỡ, nước da ngăm đen, giọng nói hào sảng, anh nhớ về những ngày đầu xa gia đình, để lại vợ con để lên đường vác đá xây đảo Trường Sa.
Nhớ lại ngày lên đường, anh Bốn kể: “Mất ba ngày ba đêm trên ô tô từ Nam Định vào Cam Ranh, rồi lại mất thêm ba ngày ba đêm nữa trên chiếc tàu lênh đênh giữa muôn trùng sóng mới ra đến đảo Nam. Quen sống trên đất liền nên hầu hết những anh nông dân như chúng tôi đi xây đảo đều phải đối mặt với thử thách đầu tiên của biển cả là say sóng.
Lần đầu tiên đi biển trên chiếc tàu được Trung tá Hoàng Kiền chuẩn bị sẵn, tất cả đều say! Anh nào nhẹ thì nhào lên nhào xuống, chóng mặt quay cuồng, anh nào nặng thì nôn ra mật vàng mật xanh, nằm bệt một chỗ”, kể đến đây anh Bốn khẽ rùng mình.

Đảo Song Tử Tây (Ảnh: Trọng Thiết)
Anh Bốn được phân công xây dựng ở đảo Nam Yết. Công trình ở đảo Nam Yết xây dựng thành công, anh Bốn tiếp tục được phân công đi xây dựng thêm những công trình thuộc các đảo nhỏ khác thuộc quần đảo Trường Sa. Anh Bốn niềm nở khoe:
“Trong 19 năm qua, tôi đã góp mặt ở hầu hết các công trình lớn nhỏ mà đất nước mình xây dựng ở Trường Sa. Đảo nào tôi cũng thấy có những nét đẹp riêng, để lại cho mình những kỷ niệm sâu sắc, không bao giờ quên với con người và cảnh vật nơi đây”.
Vừa nói anh Bốn vừa chỉ vào chiếc tủ đựng toàn những vỏ ốc, vỏ trai, hến, những cây san hô… của biển đảo Tổ quốc mà anh thu về từ những đợt xây công trình tại các đảo.
Cách đó không xa là nhà ông Nguyễn Văn Quyển, 62 tuổi. Ông Quyển cũng là một trong bảy người đầu tiên của làng ra xây dựng đảo Trường Sa.
Ông Quyển kể: “Thi công các công trình trọng yếu trên các tuyến đảo Trường Sa trong điều kiện khó khăn của những năm cuối thế kỷ XX thật chẳng dễ dàng gì. Nước biển mặn, lại luôn có sóng to, gió lớn gây nguy hại cho tính mạng của bộ đội, người thợ, cho độ bền của các công trình… Có những công trình đã in đậm dấu ấn bàn tay, khối óc của người xây đảo như chúng tôi. Đó là công trình mở luồng đá lớn, công trình chống xói lở, quy hoạch đảo nổi...
Bên cạnh đó còn là sự khó khăn do thiếu nước ngọt, rau xanh. Vượt lên khó khăn, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng, bằng tình cảm, lòng tự hào dân tộc, sự đoàn kết trong gian khó, những người thợ Bỉnh Gi cùng với lực lượng công binh đã hoàn thành nhiệm vụ
Khó khăn lớn nhất phải kể đến là về tâm lý. Khi đang quen ở cạnh gia đình, gần vợ gần con, gần bạn bè, anh em, làng xóm nay ra ngoài đảo chỉ có sóng, gió, cát và cây cối bởi vậy trong mỗi người đều có nỗi nhớ quê hương vô hạn.
Thời đó lại chưa có điện thoại di động như bây giờ, liên lạc còn gặp nhiều khó khăn nên nếu ai muốn liên lạc về cũng rất khó. Tiếp đến là thiếu thốn về nước ngọt, rau cỏ, chất tươi… có khi cả tháng trời phải ăn đồ hộp. Những lúc đó bảy anh em lại quây quần bên nhau để động viên nhau vượt qua gian khó”.
Ông Quyển nói tiếp câu chuyện: “Tuy anh em ngoài đảo thiếu thốn nước ngọt là thế, nhiều khi khát nhưng cũng không dám uống nhiều. Vì công trình xây dựng Tổ quốc nên nhiều khi anh em mỗi người nhịn uống đi một cốc nước để lấy nước ngọt trộn hồ xây do không dùng nước biển mặn được.
Chờ đến khi trời mưa thì dầm mình tắm cho thỏa thích nhưng có đợt mưa to quá, những bờ tường mới xây che chỉ được một phần, phần còn lại mưa tróc hết vữa, sợ không đủ vật liệu làm, anh em bộ đội, cán bộ chỉ huy và thợ cùng đứng ngây ra khóc”.
Cả làng hướng về Trường Sa
Sau chuyến đi xây đảo đầu tiên của những thợ nông dân làng Bỉnh Gi, cho đến nay, đã có hàng trăm người tham gia xây dựng trên các hải đảo của quần đảo Trường Sa. Có những người vì lý do sức khỏe nên chỉ đi dăm ba tháng, người nhiều đi mười mấy năm trời, về quê một thời gian rồi đi tiếp... Không chỉ làm thợ xây, Bỉnh Gi còn góp cả thợ sắt, thợ mạ, thợ mộc, công nhân phá đá, vận chuyển đá từ đất liền xuống tàu...
Ông Đóa cho biết: “Tính ra trong 20 năm nay, số người trong làng đi xây đảo Trường Sa lên đến gần 3000 lượt người. Gia đình nào cũng có người đi tham gia xây dựng đảo, có nhà liền một lúc đi đến 3, 4 người. Cứ ăn Tết xong, những người vợ, người mẹ lại chuẩn bị đồ đạc đưa chồng con lên đường ra ngoài đảo xa rồi cuối năm lại hồ hởi đón họ trở về”. 
Có lẽ vì thế, không chỉ những người đi ra đảo mà cả những người ở nhà cũng có thể kể làu làu những hòn đảo lớn nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa như: Đá Đông, Đá Lát, Thuyền Chài, Tiên Nữ, Đá Lớn, Nam Yết, Phan Vinh, Sinh Tồn…
Trước đây, nhà anh Bốn nghèo lắm, nhưng từ khi có công việc xây dựng trên đảo ổn định, kinh tế gia đình anh đã trở nên khá giả. Hai người con gái đầu của anh đều tốt nghiệp đại học, con gái thứ ba cũng đang chuẩn bị bước chân vào giảng đường.
Những tổ trưởng như anh Cần, anh Bốn, anh Hương vẫn thường xuyên về làng lấy thêm người đi xây dựng trên các đảo. Và những người con Bỉnh Gi hết lớp này đến lớp khác lại khăn gói lên đường đi kiến thiết cơ sở hạ tầng cho Trường Sa.
Nguồn Baodatviet

Thứ Hai, 17 tháng 9, 2012

5 đề xuất, sáng kiến của giới học thuật về vấn đề Biển Đông


Từ những thực tiễn, chứng lý và pháp luật đã lần lượt chuyển đến độc giả, cuốn sách “Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông” còn nêu ra những “tia sáng” và những giải pháp cho tình hình phức tạp ở Biển Đông.
5 đề xuất, sáng kiến nổi bật của giới học thuật về vấn đề Biển Đông
Tranh chấp Biển Đông hết sức phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ gây căng thẳng, xung đột, làm nguy hại đến hòa bình, an ninh, sự ổn định của khu vực và thế giới. Muốn giải quyết cơ bản được các loại tranh chấp này, nhiều học giả và chính khách đã từng nêu ra nhiều sáng kiến có giá trị. Sau đây là một số sáng kiến đáng được cân nhắc:
Thứ nhất: Thống nhất được cách giải thích và vận dụng các tiêu chuẩn để xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các quốc gia ven biển ở xung quanh Biển Đông, như: Việc xác định hệ thống đường cơ sở ven bờ lục địa, ven bờ các hải đảo xa bờ, hệ thống đường cơ sở quốc gia quần đảo, thống nhất các tiêu chuẩn để tính hiệu lực của các đảo trong việc hoạch định ranh giới biển, thềm lục địa…
Thứ hai: Thống nhất được phạm vi biển, thềm lục địa chồng lấn được hình thành từ các yêu sách của các quốc gia ven biển theo đúng các tiêu chuẩn của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Thứ ba: Thống nhất các tiêu chuẩn xác định phạm vi biển và thềm lục địa của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, với tư cách là những quần đảo xa bờ, không phải là quốc gia quần đảo; các đảo ở đây có diện tích rất nhỏ, không thích hợp với đời sống con người, không có đời sống kinh tế riêng…
Thứ tư: Thống nhất nguyên tắc pháp lý và thực tiễn quốc tế áp dụng cho việc xác định quyền thụ đắc lãnh thổ quốc gia đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa để giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo này.
Thứ năm: Nếu yêu sách nào đã đưa ra không phù hợp với những tiêu chuẩn đã được thống nhất thì phải bị coi là vô giá trị, quốc gia nào đã đưa ra yêu sách đó phải từ bỏ nó với một tinh thần thực sự cầu thị, tôn trọng luật pháp, thực tiễn quốc tế, vì lợi ích, hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và quốc tế.
Và những “tia sáng” trong vấn đề Biển Đông
Trong thực tiễn quốc tế, có không ít những tấm gương về trách nhiệm và tinh thần cầu thị của một số quốc gia khi tham gia đàm phán xác định ranh giới biển. Đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc là một ví dụ điển hình: Việt Nam đã đồng ý cùng với Trung Quốc đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ bằng con đường thỏa thuận thông qua thương lượng hữu nghị, trên cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế, có tính đến các hoàn cảnh hữu quan trong vịnh, nhằm đi đến một giải pháp công bằng mà cả hai bên đều có thể chấp nhận được. Kết quả là ngày 25/12/2000 tại Bắc Kinh, hai nước đã chính thức ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, kết thúc quá trình đàm phán kéo dài 27 năm với 3 vòng đàm phán chính: năm 1974,1977-1978 và từ năm 1992-2000.
Trong Tuyên bố chung Việt Nam- Trung Quốc ngày 25/12/2000 đã nhấn mạnh : Việc hai nước ký kết “Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” và “Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”, “Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” có ý nghĩa lịch sử sâu rộng, sẽ thúc đẩy mạnh hơn nữa trong thế kỷ XXI.
Có thể nói rằng, cùng với việc đã và đang giải quyết các tranh chấp trên biển với các nước láng giềng có liên quan, việc ký kết Hiệp định này là bước tiến mới trong việc xây dựng môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, góp phần tích cực vào việc củng cố hòa bình ổn định trong khu vực và thế giới. Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ cũng có những đóng góp trong thực tiễn áp dụng và phát triển luật quốc tế về phân định biển giữa các nước có bờ biển vừa đối diện vừa tiếp giáp với các địa hình đáy sông, đáy biển, vấn đề cửa vịnh, vấn đề eo biển quốc tế, giá trị của bản đồ trong hiệp ước biên giới…
Chúng ta tin rằng các bên liên quan trong Biển Đông sẽ tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được trong thời gian qua để trước hết là phải từ bỏ các yêu sách đơn phương về biên giới biển 9 đoạn bao lấy 80% diện tích Biển Đông mà phía Trung Quốc đã sử dụng dựa theo tờ bản đồ do một công dân ở Đài Loan (Trung Quốc) tự ý vẽ ra từ năm 1946…; tiếp đến, cùng nhau tìm được một mẫu số chung, làm cơ sở pháp lý cho mọi diễn đàn giải quyết các tranh chấp có thể có trong thời gian tới theo các nội dung đã đề cập ở trên. Thực hiện được những nội dung nói trên là điều không dễ dàng, thiết nghĩ cần có biện pháp và lộ trình thực hiện một cách thiết thực.

Trước hết, phương châm có thể áp dụng trong bối cảnh hiện nay là : “Dễ giải quyết trước; Khó giải quyết sau”. Vì vậy, trước mắt chúng ta hãy tạm gác vấn đề giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa; tạm thời giữ nguyên hiện trạng của các bên tranh chấp trên hai quần đảo này; mỗi đảo có người ở cho phép có phạm vi biển rộng 12 hải lý bao quanh, các bãi cạn nửa nổi nửa chìm nên có công trình nhân tạo trên đó thì chỉ có vùng an toàn 500 mét bao quanh để thực hiện quản lý, bảo vệ theo quy chế của nội thủy, lãnh hải của bên đang chiếm đóng.
Ngoài phạm vi biển của các đảo, bãi cạn đó, các bên sẽ thống nhất ranh giới biển và thềm lục địa theo đúng tiêu chuẩn của Công ước Luật Biển năm 1982 để xác định các khu vực chồng lấn nhằm tiến tới xác định ranh giới biển, thềm lục địa. Trong khi các bên chưa thống nhất được ranh giới cuối cùng, có thể tính đến một giải pháp tạm thời “hợp tác khai thác chung” (joint development) trong các vùng chồng lấn được hình thành từ những yêu sách mà các bên liên quan đã vận dụng nghiêm túc các quy định của Công ước về Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp quốc.
Biển Đông nổi sóng hay yên bình đang là một vấn đề được tất cả các quốc gia trong khu vực và thế giới quan tâm. Nó phụ thuộc vào thiện chí và trách nhiệm chính trị của các bên liên quan, kể cả ở trong khu vực và ngoài khu vực.
Mặc dù vẫn còn đó tiềm ẩn của những nguy cơ Biển Đông nổi sóng to gió lớn. Tuy nhiên, điều quan trọng là ngày nay nhân loại đã nhận dạng được nguyên nhân gây ra những cơn sóng dữ, với những quyết tâm chính trị và nỗ lực không ngừng của cộng đồng khu vực và quốc tế, chắc chắn sẽ tìm được biện pháp ngăn chặn và đè bẹp chúng để giữ cho Biển Đông được bình yên vốn có như từ thuở hồng hoang.
(Lược trích từ sách “Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông”)

Theo Infonet







Thứ Ba, 4 tháng 9, 2012

'Mắt thần' trên biển Đông


Xây trên nền san hô, nền đất bùn yếu với mực nước sâu hàng chục mét, những nhà giàn DK1 đã trở thành "làng trên biển", được đánh giá là công trình phi thường, "chưa từng có tiền lệ trên thế giới".

 Hơn 20 năm trước, PGS.TS Phạm Ngọc Nam (nguyên Phó Viện trưởng Viện Kỹ thuật Công binh) được giao nhiệm vụ cùng với đồng nghiệp thiết kế Trạm dịch vụ Kinh tế Khoa học Kỹ thuật (công trình nhà giàn DK1). Đôi mắt xa xăm, đôi tay run run lật giở từng trang "Nhật ký đời biển – DK1", ông Nam cho biết, các nhà giàn chốt giữ trên bãi san hô ngầm ở thềm lục địa phía Nam, khu đặc quyền kinh tế, thuộc đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, nơi rất giàu tài nguyên của đất nước.
 "Đây là tầm nhìn chiến lược của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, trong đó có sự đề xuất của Tư lệnh Hải quân, Đô đốc Giáp Văn Cương khi ấy, và DK1 là đỉnh cao của chiến lược phòng thủ biển, bảo vệ đất nước từ hướng biển", ông Nam nói.
Theo vị Chủ nhiệm thiết kế công trình DK1, từ năm 1985, Đô đốc Cương đã dự báo trong tương lai gần, vùng biển khu vực Trường Sa không được bình yên và sẽ là chiến trường chính của Hải quân Việt Nam. Hơn nữa, thực tiễn chiến tranh vệ quốc của dân tộc, đối phương tấn công ta phần lớn là từ đường biển nên cần bảo vệ Tổ quốc vững chắc từ hướng biển.
Ý tưởng xây dựng nhà nổi được Đô đốc Cương trình lên Bộ Quốc phòng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Ý tưởng được thông qua, ông Nam được giao làm chủ nhiệm thiết kế. Ngày 6/11/1988, đoàn khảo sát đã vượt sóng ra thềm lục địa để thăm dò.
 Để đảm bảo tính chính xác trong tính toán, ông Nam cũng mời nhiều cơ quan tham gia tính toán độc lập nhau để đối chứng, tăng độ tin cậy. Ngoài ra, nhóm cũng kiểm tra đến từng chi tiết đến tổng thể công trình về độ bền, ổn định, dao động, chuyển vị, độ bền từng nút, công phu…
“Công trình DK1 đã có sức mạnh tổng hợp từ đông đảo các nhà khoa học, các trung tâm tính toán công trình biển của cả nước tham gia đối với hai loại nền mới lạ trái ngược nhau là nền đá san hô và nền có lớp bùn mặt dày lớn”, ông Nam cho biết.
 Để xây dựng được nhà giàn trên nền san hô cũng như nền có lớp bùn rất dày, ông đã dùng phương án móng cọc thép mà không dùng móng trọng lực hay khi gia cường nâng cấp công trình là loại móng cọc kết hợp với gia trọng. Ông đã sáng tạo ra kết cấu cọc đặc biệt để có thể đóng được vào nền đá san hô, quả búa cũng phải tương thích 18 tấn hoặc 30 tấn. Thời điểm đó Việt Nam có hai tàu lớn là Hoàng Sa và Trường Sa. Tàu Hoàng Sa có sức cẩu 1.200 tấn, tàu Trường Sa có hai móc cẩu, cùng lúc cẩu được 600 tấn và đầu máy có công suất khoảng 15.000 mã lực, sàn rộng 54m, dài 170m.
Sau gần 7 tháng khảo sát và chuẩn bị, ngày 10/6/1989, nhà giàn đầu tiên mang phiên hiệu Phúc Tần trụ giữa biển Đông với tư cách là “cột mốc chủ quyền quốc gia đặc biệt trên biển”. Tiếp sau đó, công trình DK1/1 được thi công tại bãi Tư Chính ngày 27/6/1989. Khối hạ tầng, chân đế do ban quản lý công trình Dầu khí thiết kế, liên doanh dầu khí Việt - Xô thi công. Tại đây, cọc chỉ đóng vào nền đá san hô sâu được 2-2,5m do chưa tương ứng về mấu và cọc. Khối nhà ở, thượng tầng do ông Nam thiết kế, xí nghiệp X49 Bộ Tư lệnh công binh thi công.
Hai công trình DK1/3,4 do Bộ Giao thông Vận tải thiết kế, xây dựng năm 1989 với phần hạ tầng bằng phương án trọng lực. Thượng tầng (nhà ở) do TS Nguyễn Xuân Kiên thiết kế, X49 thi công. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố hai công trình này chỉ đáp ứng yêu cầu chính trị mà người chưa ở được.
"Do lần đầu tiên xây dựng công trình trên biển, đối mặt với những dòng chảy dữ dội, những đợt sóng thần, những bất thường về khí tượng thủy văn, dòng hải lưu, thăm dò thực tế còn thiếu nên chúng tôi đã gặp phải không ít khó khăn", ông Nam nói.
Nối tiếp thành công của những nhà giàn đầu tiên, đơn vị thiết kế và thi công của ông Nam tiếp tục rút kinh nghiệm để xây dựng thành công các nhà giàn tiếp theo. Công trình DK1 sau được thiết kế thấp hơn để tránh bị rung lắc khi có sóng và có bãi đáp máy bay được thiết kế trên nóc nhà. Các nhà giàn từ chỗ không có điện đến có điện bằng năng lượng mặt trời, thiết bị thu sóng vô tuyến, có thùng xốp trồng rau xanh…
"Mắt thần DK" vững chãi trên Biển Đông. Ảnh: Nguyễn Hưng.
DK1/5,6 tiếp tục được xây dựng ở đảo ngầm Tư Chính, Phúc Nguyên. Khi thi công hai nhà giàn này, bộ đội ta đã phải đứng giữa ranh giới mỏng manh của sự sống và cái chết. Khi đang cẩu lắp chân đế, đóng cọc thì bão ập tới, văng, dật, lắc liên hồi. Sau 22 giờ vật lộn với sóng gió, đơn vị thi công cũng chỉ cẩu xong được 4 cọc (bình thường thì cẩu - thả một cọc vào ống chân đế chỉ mất 30 phút). Sau khi thả cọc vào ống chân đế là công đoạn đóng cọc. Việc đóng được cọc vào nền đá san hô chính là mấu chốt thành công của công trình DK1.
Người chủ nhiệm thiết kế nhà giàn vẫn nhớ như in, khoảng 23h ngày 26/10/1990, một tàu nước ngoài đã xông thẳng vào đội hình ta đang thi công. Trước tình huống nguy cấp, tàu Hải quân hộ tống đoàn thi công đã bắn cảnh cáo, buộc tàu lạ chạy ra xa khoảng 5 hải lý.
Vượt lên mọi khó khăn, các nhà giàn tiếp nối từ DK1/7 đến DK1/21 được dựng lên ở các bãi Huyền Trân, Quế Đường đến Cà Mau. Từ nhà giàn đầu tiên, đến nay chúng ta đã đóng được hàng chục cọc với độ sâu đến vài chục mét theo yêu cầu thiết kế.
Vì là công trình xây dựng trên bãi đá ngầm ở biển nên ngoài việc chống ăn mòn, nhóm thiết kế và thi công phải luôn luôn kiểm tra, bảo trì, duy tu, bảo dưỡng định kỳ bằng lực lượng tại công trình và chuyên trách hợp lý. Ngoài ra, còn phải gia cố, nâng cấp công trình DK1 phù hợp với tình hình mới.
Mới đây, nhà giàn Phúc Nguyên, DK1/15 mới được xây dựng bên cạnh nhà giàn cũ. Đây là nhà giàn thế hệ thứ ba có kết cấu vững chắc, liên hoàn vởi diện tích khoảng 250m2. Sự vượt trội của nhà giàn mới so với nhà giàn xây dựng trước đó là hệ thống tấm pin năng lượng mặt trời nhiều gấp 3 lần. Mùa mưa bão không có ánh mặt trời, hoặc sương mù, các chiến sĩ vẫn có điện dùng để chiếu sáng, nấu cơm, chạy tủ lạnh, xem ti vi trong một tháng, trong đó các nhà giàn khác chỉ khoảng 10 ngày.
"DK1 là công trình được xây dựng ở những khu vực đặc biệt đặc thù mới lạ, cả trong nước và thế giới đều chưa có tiền lệ, được nhiều nhà khoa học danh tiếng đánh giá là 'phi thường', công trình dũng khí’. Không chỉ có ý nghĩa to lớn về chính trị, quốc phòng, an ninh, DK1 còn mở ra tương lai tươi sáng cho việc chinh phục biển vốn còn non trẻ của nước ta", người thiết kế nhà giàn nói.
Sừng sững giữa biển khơi với những chiếc chân cắm sâu vào lòng biển, 20 nhà giàn DK1 của Việt Nam đang hiên ngang giữa đất trời, là cột mốc sống, tạo thành phên giậu, khẳng định chủ quyền đất nước trên biển Đông. Các trạm dịch vụ kinh tế khoa học kỹ thuật này cũng được gọi là "những ngôi làng trên biển", "khách sạn giữa biển Đông" hay “mắt thần trên biển”.
Hoàng Thùy

Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012

9 bản đồ cổ chứng minh Trung Quốc không có Hoàng Sa và Trường Sa


1. Trong bản đồ cổ do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về trước, cực nam nước này là đảo Hải Nam. Trong khi, các bản đồ hàng hải châu Âu đều thể hiện quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

 2. Dư địa đồ đời Nguyên của Chu Tư Bản được vẽ thu nhỏ lại trong sách "Quản Như Đồ của La Hồng Tiên" quyển 1, thực hiện năm 1561, phần cực nam lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam, không có Hoàng Sa và Trường Sa.

3.  Trong "Đại Minh thống nhất chí" năm 1461, quyển đầu cũng vẽ cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam.
Hoàng Minh đại thống nhất tổng đồ đời Minh, trong "Hoàng Minh chức phương địa đồ" của Trần Tổ Thụ (1635) đã vẽ phần cực Nam Trung Quốc là đảo Hải Nam.
 4. Hoàng triều phủ sảnh châu huyện toàn đồ đời Thanh, năm 1862, vẽ theo "Nội phủ địa đồ" gồm 26 mảnh mang tên "Đại Thanh kịch tỉnh toàn đồ" không có Hoàng Sa và Trường Sa.
 5. Quảng Đông tỉnh đồ trong Quảng Đông dư địa toàn đồ, do quan chức tỉnh Quảng Đông vẽ năm 1897, có lời tựa của Tổng đốc Trương Nhân Tuấn không có bất kỳ quần đảo nào ở Quảng Đông.
6.  Đại Thanh đế quốc vị trí khu hoạch đồ (năm 1909) đã vẽ phần cực Nam Trung Quốc là đảo Hải Nam.
 7. Bản đồ ghi khoảng cách các đảo gần nhất từ quần đảo Hoàng Sa đến các đảo gần đất liền (trích từ bản đồ Southeast Asia - National Geographic Society - Washington, 1968).
8. Ngoài ra, bản đồ hàng hải châu Âu thế kỷ XV - XVI thể hiện hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Bản đồ Đông Dương của Danvilleen vẽ năm 1735 cũng thể hiện rõ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.

Đầu năm 2012, huyện đảo Hoàng Sa (Đà Nẵng) đã phối hợp với Bảo tàng Đà Nẵng phát hành cuốn Kỷ yếu Hoàng Sa. Cuốn kỷ yếu dày hơn 200 trang gồm các phần "Hoàng Sa là của Việt Nam", "Công tác quản lý nhà nước đối với huyện Hoàng Sa", "Hoàng Sa và những nhân chứng lịch sử", "Cảm nghĩ của người Đà Nẵng về Hoàng Sa".
Đặc biệt, kỷ yếu có các tư liệu lịch sử, bằng chứng chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa và phần cảm nhận về Hoàng Sa của 24 nhân chứng từng đến sống và làm việc tại quần đảo này trong những thập niên 50-70 của thế kỷ XX.
9. Và mới đây nhất vào ngày 25/7/2012 là tấm bản đồ được tiến sĩ Mai Ngọc Hồng tặng cho Bảo tàng lịch sử quốc gia:
Xem video:
Trong tấm bản đồ của Trung Quốc xuất bản năm 1904, cực nam của nước này được ghi rõ là đảo Hải Nam, không hề có Hoàng Sa, Trường Sa. Nhà sử học Dương Trung Quốc cho hay, bản đồ "có yếu tố mới về mặt pháp lý".
Ngày 25/7, Bảo tàng Lịch sử quốc gia tiếp nhận một số tài liệu, hiện vật do các tổ chức, cá nhân hiến tặng. Trong đó có bản đồ cổ "Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ" (Toàn bộ bản đồ địa lý của đất nước) do nhà Thanh (Trung Quốc) xuất bản năm 1904 của tiến sĩ Mai Ngọc Hồng (nguyên trưởng phòng tư liệu thư viện của Viện Hán - Nôm, hiện là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng phả học Việt Nam) trao tặng.

"Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ" là tập bản đồ Trung Quốc xuất bản tại Thượng Hải năm 1904 và tái bản năm 1910. Bản đồ này xác định đảo Hải Nam là điểm cực nam lãnh thổ Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là các quần đảo ở Biển Đông như Hoàng Sa, Trường Sa nằm ngoài lãnh thổ Trung Quốc.

Bản đồ được in màu, tạo nên từ hơn 35 miếng ghép dán trên nền vải bố, kích cỡ mỗi miếng khoảng 20x30cm. Tiến sĩ Hồng đã gìn giữ nguyên vẹn qua 30 năm. Ông cho biết, vào những năm 1970, khi còn là cán bộ phòng tư liệu, quản lý kho sách của Viện Hán - Nôm, trong quá trình sưu tầm sách, tư liệu cổ cho Viện, ông đã mua được tấm bản đồ từ một cụ già tên là Nguyễn Văn Công. Cũng giống như nhiều tư liệu mà Viện không sử dụng, ông mua về cất giữ. Mới đây, trong một lần kiểm kê, ông tìm thấy lại tấm bản đồ. "Điều này giống như một cơ duyên", tiến sĩ Hồng nói về tấm bản đồ.

Khi tìm lại được tấm bản đồ, ông đã nghiên cứu, dịch bài dẫn, ghi chú trên bản đồ và bất ngờ về giá trị pháp lý của công trình này. Một trong những giá trị lớn mà ông đánh giá cao là sự nghiêm túc, đầu tư công phu về tư liệu để phục vụ cho việc lập bản đồ với thời gian dài lên đến gần 200 năm, bắt đầu từ thời vua Khang Hy và chỉ được hoàn tất cho xuất bản vào năm 1904. Theo ông, tấm bản đồ này được lập với khối tư liệu đồ sộ, được nhà vua Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo thực hiện. Nó không chỉ tập trung trí tuệ của các nhà khoa học phương Tây mà cả Trung Quốc, cho thấy tính nghiêm túc, chính thống và giá trị khoa học của người Trung Quốc đối với bản đồ hiện đại đầu tiên được in ấn, làm theo thiết kế, kỹ thuật của phương Tây, đặc biệt với tỷ lệ xích rất chính xác.

"Đây không phải bản đồ của tư nhân, của địa phương nào mà do vua cùng với các nhà khoa học nghiên cứu khảo sát lâu dài làm ra. Do đó, đây là một cứ liệu lịch sử không thể chối cãi", tiến sĩ Mai Ngọc Hồng khẳng định.
Có mặt tại buổi lễ, Tổng thư ký Hội khoa học lịch sử Việt Nam Dương Trung Quốc cho hay bản đồ "có yếu tố mới về mặt pháp lý". Đây là bản đồ được Trung Quốc vẽ theo phương thức hiện đại của phương Tây, khác với cách vẽ theo cách riêng trước kia, có ghi rõ tọa độ, phù hợp với ngôn ngữ bản đồ hiện nay.

"Giá trị quan trọng nhất không phải giá trị tự thân bản đồ mà là nội dung. Bản đồ xác định cực nam của lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam. Điều này liên quan đến câu chuyện mà chúng ta đang đấu tranh để bảo vệ chủ quyền với Hoàng Sa, Trường Sa", ông nhận xét.

Nhà sử học nhấn mạnh thêm, một trong những chứng lý thể hiện chủ quyền, đó là chứng lý về lịch sử. Trong khi thư tịch và bản đồ của triều đại Việt Nam đã thể hiện Hoàng Sa, Trường Sa trên bản đồ thì trong hoạt động mang tính chất quản lý chủ quyền, trên bản đồ Trung Quốc chưa hề đề cập tới. Ví dụ như, năm 1834 dưới triều Minh Mạng, Việt Nam đã có bản đồ biểu thị cụ thể về dải Vạn Lý ở Trường Sa, ngoài Biển Đông.

"Đây là một yếu tố quan trọng khi xác lập chủ quyền về mặt lịch sử, đặc biệt trong tranh chấp", ông Dương Trung Quốc bình luận về giá trị của "Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ".

Nhà sử học cũng lưu ý về những tài liệu mang tính chất chứng lý phục vụ cho việc củng cố chủ quyền của dân tộc đối với biển đảo, trong đó sách vở không chỉ của Trung Quốc mà còn của nhiều nước khác. Theo ông, Việt Nam nằm trên con đường vận tải biển trọng yếu của thế giới. Vị trí, vùng biển nước ta được thể hiện rất nhiều trên bản đồ của các quốc gia hàng hải trên thế giới như Hà Lan, Anh, Tây Ban Nha...
Admin tổng hợp từ nguồn  tinmoi.vn và http://vnexpress.net
TB: Do khả năng của bản thân có hạn, admin rất mong các bạn chuyển bài viết này sang tiếng Anh và tiếng Trung đồng thời thông cáo rộng rãi để người dân các nước mà đặc biệt là người dân Trung Quốc được biết. Xin trân trọng cảm ơn !




Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

Ðất liền và đảo xa

Những chuyến tàu ra thăm huyện đảo Trường Sa ngày một nhiều. Cả nước hướng về Trường Sa, quan tâm, động viên, chia sẻ tình cảm với những chiến sĩ đang ngày đêm giữ vững chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Rời cảng Lữ đoàn 125 Hải quân (TP Hồ Chí Minh), sau hai ngày đêm vượt trùng khơi, trong tầm mắt là đảo Trường Sa lớn. Cán bộ, chiến sĩ xếp thành hàng dài dọc theo hàng cây phong ba hiên ngang đứng trước biển chào đón tàu cập cảng. Các hoạt động nghi lễ, những cuộc trò chuyện, thăm hỏi, trao quà khiến cả đảo sôi động. Có những món quà vượt qua hàng nghìn cây số từ nhiều nơi trên thế giới để đến với lính đảo.
Trong đợt này, nhiều Việt kiều về thăm Trường Sa. Phó Chủ tịch Hội Người Việt Nam tại Thái-lan Ðào Trọng Lý cho chúng tôi biết, ông rất vui mừng vì có tên trong danh sách bốn người, đại diện cho Việt kiều từ Thái-lan ra thăm Trường Sa. Ngoài số tiền quyên góp gửi tới những người con thân yêu của Tổ quốc, bà con Việt kiều gửi tặng những bức ảnh khổ to chụp Làng Hữu nghị Thái-lan - Việt Nam ở bản Na Chọc (huyện Mương, tỉnh Na-khon Pha-nôm), nơi Bác Hồ từng sống, hoạt động cách mạng. Ông Lý thường xuyên theo dõi tin tức về tình hình Biển Ðông và không ngờ có cơ hội được đặt chân đến vùng đảo biên cương của Tổ quốc. Con tàu chở đoàn Việt kiều thăm các đảo ở phía bắc quần đảo Trường Sa, chúng tôi được ra thăm các đảo ở phía nam. Ngay khi kết thúc hành trình, về đến TP Hồ Chí Minh, ông Lý vui mừng gọi điện cho chúng tôi. Trước chuyến đi, ông không thể hình dung nổi đảo Trường Sa lớn (thủ phủ của huyện đảo Trường Sa) lại đẹp và khang trang thế. Thị trấn có nhiều cây xanh, bệnh xá, chùa, nơi dạy học cho con em người dân trên đảo, có sóng điện thoại, điện và nước khá đầy đủ. Hỏi chuyện những chiến sĩ đóng quân nơi đây, ông cảm nhận ở họ sự tự tin, rắn rỏi và ý thức rõ trách nhiệm Tổ quốc giao phó.
Những người giữ biển đảo không dễ gặp được đồng hương đến thăm từ đất liền để nói chuyện về quê nhà. Ba chiến sĩ trẻ Tuyền, Thịnh, Kha tuổi mười tám, đôi mươi, may mắn gặp người cùng dân tộc Mường với mình. Ðêm giao lưu văn nghệ trên Trường Sa Lớn, nhà văn Mai (công tác tại Ban Tuyên giáo Ðảng ủy khối các cơ quan T.Ư) nổi bật trong trang phục truyền thống của người Mường. Chị mặc trang phục này để ba người em đồng hương Hòa Bình vơi nỗi nhớ đất liền, quê nhà. Mảnh đất biên cương dù xa xôi, cách trở bởi trùng khơi, mãi mãi là một phần đất thiêng của Tổ quốc, các dân tộc anh em chung tay gìn giữ.
Ở vùng đất cực đông Tổ quốc đó, có những câu chuyện cảm động về nghị lực của người chiến sĩ, gác lại những khó khăn, mất mát riêng để vững tâm cống hiến cho đất nước. Hiểu rõ điều này, nên khi đặt chân lên bất cứ đảo nổi, đảo chìm nào trong hành trình thăm Trường Sa, mối quan tâm đầu tiên của Phó Chính ủy Quân chủng Hải quân, Chuẩn Ðô đốc Ðinh Gia Thật (Phó trưởng đoàn công tác số 7), là hoàn cảnh gia đình của các chiến sĩ trên đảo. Chính nhờ mối quan tâm đó, nhiều thành viên khác trong đoàn mới biết được có những nỗi đau quá lớn của người chiến sĩ nơi đầu sóng ngọn gió, trong đó có Thượng úy Phạm Quốc Phương, Ðiểm trưởng điểm C đảo chìm Tốc Tan. Con trai đầu lòng của anh, cháu bé hơn ba tuổi vẫn gọi điện nói chuyện với bố và hát cho bố nghe những bài được mẹ dạy, mới mất chỉ vài ngày trước khi tàu chúng tôi tới đảo vì ung thư máu. Nhận được tin dữ, anh không thể về được vì đang thực thi nhiệm vụ. Cũng coi nhiệm vụ là trên hết, nên đứng trước đoàn công tác, người chỉ huy trưởng điểm đảo tiền tiêu đã nén nỗi đau, dõng dạc báo cáo tình hình trực chiến, huấn luyện, đời sống cán bộ, chiến sĩ trên đảo. Ðến khi biết chuyện, nhiều cơ quan và cá nhân tham gia đoàn công tác quyên góp nhanh để ủng hộ và chia sẻ nỗi buồn với Thượng úy Phương cùng gia đình. Thật xúc động, khi nhận món quà tình cảm từ đất liền, người đứng đầu điểm đảo nói: "Ở Trường Sa, có nhiều đồng chí còn có hoàn cảnh khó khăn hơn tôi".
Con tàu HQ 996 cắt sóng đưa chúng tôi tới gần đảo nổi Trường Sa Ðông. Cây xanh của đảo trên nền mầu xanh thẫm của nước biển sâu, xanh ngọc nơi bãi ngầm và san hô quanh đảo, cùng với mầu ngói đỏ thấp thoáng sau những cây bàng vuông, cây tra, cờ đỏ sao vàng tung bay trong gió, dựng một bức tranh thanh bình, thơ mộng. Tàu thả neo, những chuyến xuồng đưa người vào đảo. Thời gian ghé thăm ngắn ngủi. Những người trên chuyến xuồng cuối cùng vào đảo chưa đến nửa giờ, luyến tiếc khi nghe thấy thông báo phải về tàu gấp, nước triều đang rút. Năm cô sinh viên năm thứ ba ngành múa Trường trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Ðà Nẵng và những ca sĩ trong đoàn vẫn say sưa biểu diễn. Nước triều xuống thấp, bãi ngầm hiện ra, xuồng không thể vào gần bờ, chỉ có thuyền vào được gần hơn. Chiến sĩ trên đảo mặc áo phao, ra kéo thuyền tiễn người rời đảo. Mấy em văn công được các chiến sĩ "ưu tiên" bế ra phía thuyền. Tiếng cười rộ động viên họ. Thuyền dần rời xa đảo, những nụ cười tươi trên những gương mặt sạm đen vì nắng, gió, vẫy chào tạm biệt, hòn đảo nhỏ dần giữa biển khơi, lòng người thấy nao nao.
Cả nước hướng về Trường Sa, cơ sở vật chất và đời sống của anh em trên đảo được cải thiện, có máy thu hình, trạm phát sóng điện thoại, cột điện gió và pin mặt trời, nhưng khó khăn còn nhiều. Mùa hè nắng rát, mùa mưa, bão gió muối thổi. Ðến đảo xa càng thấy mình bé nhỏ trước sự chịu đựng, hy sinh của các anh.
Ngoài thời gian làm nhiệm vụ trực chiến, huấn luyện, nhiều chiến sĩ trẻ có chung sở thích đọc sách và chế tác ốc. Họ lựa những con ốc nhỏ có mầu sắc đẹp xâu thành chuông gió, tìm những con ốc to có vân đẹp đem về hơ lửa loại bỏ san hô bám chung quanh, dùng dao khía các rãnh trên thân ốc, xoa dầu bóng để các đường vân trông nổi hơn. Ðây thường là những món quà quý những chàng trai canh giữ đảo dành riêng cho chị em ra thăm sau những cuộc trò chuyện, giao lưu, kết bạn. Món quà ẩn chứa trong đó là tính kiên trì và sự sáng tạo của những người lính đảo.
Tàu tới thăm đảo chìm Núi Le. Chủ nhà - chiến sĩ canh đảo, bận rộn hơn nhưng vui hơn vì có thêm nhiều người quen mới. Phương Thảo, một thành viên trong đoàn được chiến sĩ Tiến Trường tặng một con ốc to, đẹp, mài giũa dày công. Biết địa chỉ quê Trường ở huyện Tứ Kỳ (Hải Dương), không quá xa Hà Nội nơi Thảo đang công tác tại trụ sở Ðảng ủy Ngoài nước, Thảo hứa với Trường vào một ngày tới đây sẽ cùng Ðoàn thanh niên tổ chức chuyến đi chuyển món quà của Trường tới gia đình: một con ốc trong bộ sưu tập của Trường và bức ảnh chụp người giữ đảo điển trai này.
Những chuyến tàu ra thăm Trường Sa thường phải đi cả nghìn hải lý, qua nhiều đảo nổi, đảo chìm, có biết bao kỷ niệm, tất cả vì Trường Sa thân yêu.
TRƯỜNG SƠN

Thứ Bảy, 28 tháng 1, 2012

Nắm cát vàng từ Hoàng Sa


Ngày TP.Đà Nẵng cắm bảng đặt tên đường Hoàng Sa cho đại lộ ven biển Sơn Trà, tôi đã dong xe miệt mài qua lại nhiều lần. Dẫu con đường này đã quá đỗi thân quen, nhưng sau khi mang tên mới, trong tôi có một cảm giác lạ lắm, cứ như mình đang sờ nắn được một Hoàng Sa…
Chợt giật mình, thấy thương và hiểu được một phần nào tâm tư của anh bạn ngư dân Mai Phụng Lưu ở làng chài An Hải, Lý Sơn, Quảng Ngãi. Theo cha đi biển từ nhỏ, một đời bám biển, quanh năm nằm ở Hoàng Sa, vậy mà ông Lưu cũng phải mang về cho mình những nắm cát vàng từ đảo để vơi đi nỗi nhớ…
Sờ nắn được tình yêu
Tôi trở lại Lý Sơn lần thứ ba, nhưng lại là lần đầu tiên đi bằng đò ngang từ cảng Sa Kỳ ra huyện đảo này, nên đã tiếp xúc được với nhiều ngư dân hơn. Lần thứ nhất, ghé vào Lý Sơn từ ngoài khơi, bằng tàu hải quân HQ 628 trong một chuyến thăm các đảo ven bờ dịp cận Tết Nguyên đán - 2008.
Một góc Lý Sơn.
Lần kế tiếp hội ngộ Lý Sơn từ... trên trời, bằng máy bay trực thăng của Sư đoàn 372 trong một chuyến mang hàng cứu trợ người dân sau bão số 9, năm 2009. Mỗi lần đến với hòn đảo nhỏ xinh đẹp này, tôi luôn tranh thủ lần mò mọi ngóc ngách, hòng mong tìm hiểu thêm về đời sống, văn hoá của cư dân miệt biển, đặc biệt là những dấu tích liên quan đến Hoàng Sa.
Lý Sơn là vùng lãnh thổ may mắn của tổ quốc, không chịu sự tàn phá trực tiếp từ các cuộc chiến tranh. Bởi vậy, trầm tích văn hoá nơi đây gần như còn nguyên vẹn, luôn ẩn chứa nhiều điều lạ lẫm, mới mẻ, mà người đương đại chưa khám phá, hiểu hết được về nơi này. Đặc biệt, Lý Sơn là quê hương của những cai đội Hoàng Sa thời Nguyễn, là nơi lưu dấu đậm nét nhất của Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải, những hiện vật minh chứng chủ quyền Hoàng Sa là của Việt Nam.

Cũng như bao du khách khác, lần đầu đến với Lý Sơn, địa chỉ đầu tiên chúng tôi phải ghé thăm, tìm hiểu là Âm Linh tự và quần thể mộ gió gắn liền với huyền sử đi biển, giữ đảo của người dân vùng này. Thắp nén nhang trong các điện thờ, lặng thinh nghe tiếng vọng sóng biển trong không gian hương khói, chắc chắn không ai nghĩ rằng dưới những nấm mộ gió kia chỉ có đất sét nặn và thân những cành cây dâu. Vong linh của những người đã chết dường như được về với đất tổ, dẫu thân xác họ vĩnh viễn nằm lại với Hoàng Sa, với biển Đông.
Tôi ghé thăm nhà quả phụ Ngô Thị Việt - vợ của ngư phủ xấu số Võ Minh Tân. Ông Tân cùng với 5 thuyền viên khác là con dân của Lý Sơn đã nằm lại với trùng khơi nơi vùng biển Hoàng Sa trong một trận bão biển áp Tết 2010.
Đã gần 1 năm, kể từ ngày con tàu xấu số của thuyền trưởng Võ Minh Tân bị chìm, cái lạnh lẽo của chiều đông se sắt ấy như vẫn còn ngập trong căn nhà bé nhỏ này. Nhưng mọi nỗi buồn dường như đã dồn vào đôi mắt sâu thẳm, với cái nhìn vợi xa của chị Việt.
Tôi phải gượng lên nỗi đau mà sống nuôi con, trả nợ con tàu chứ biết làm sao anh" - chị Việt tâm sự - "Từ ngày làm lễ rước linh, nhập hồn để xây mộ gió cho anh ấy, mẹ con tôi đã thấy ấm lòng. Anh ấy đã về với gia đình”.

Tôi đã đọc và nghe nhiều lý giải về 2 từ “mộ gió”, rằng nó là những độn cát ven biển, bị gió xây thành nấm, dịch chuyển bất ổn. Hay là mộ mà không có nắm xương người, như người ta vẫn “xí đất” để làm sinh phần...
Nhưng sau khi ghé thăm gia đình các quả phụ tại Lý Sơn, tôi mới chợt thấy thêm một ý nghĩa khác. Rằng mọi tình cảm thiêng liêng dù không có hình hài cụ thể, không đụng chạm được, nhưng có thể cảm nhận, nghe thấy nó, giống như gió vậy.
Có mà như không, không mà lại có, đó là mộ gió. Tình yêu thương dù có dậy sóng trong lòng, nhưng cũng sẽ mơ hồ, mông lung nếu không có một sự hiện hữu vật thể nào đó có thể sờ nắn được ở trên đời.
Bởi vậy, người dân Lý Sơn từ xa xưa đã nghĩ đến việc rước vong linh, nhập hồn vào hình nhân là đất nặn và cây dâu, để dựng lên những ngôi mộ gió, thờ những người đàn ông bỏ mạng khi đi canh giữ Hoàng Sa xưa kia và những ngư phủ bỏ mạng vĩnh viễn ngoài biển Đông bây giờ.
Công dân Hoàng Sa
Ra Lý Sơn lần này tôi còn trách nhiệm mang tiền, quà từ Quỹ Tấm lòng vàng Lao Động ra tặng các gia đình ngư dân khó khăn, học sinh nhân ngày thành lập nghiệp đoàn nghề cá đầu tiên cả nước tại đây.
Đêm trước của ngày thành lập Nghiệp đoàn Nghề cá An Hải, tôi được nhóm ngư dân mời về nhà Mai Phụng Lưu để uống rượu Vú Nàng và thưởng thức món cá ngừ câu về từ Hoàng Sa.
Thú thật, sự hấp dẫn hơn cả với tôi vẫn là cái tên Mai Phụng Lưu. Cái tên ấy dẫu đã quá quen thuộc với giới truyền thông và người dân cả nước. Sự nổi tiếng bất đắc dĩ của ông chỉ vì lý do rất đời thường là gan lỳ, kiên quyết bám biển dẫu bao phen hoạn nạn. Trong đó có ít nhất 5 lần bị Trung Quốc bắt giữ, tịch thu ngư cụ, tàu cá..., trắng tay.
Lưu tâm sự, dù phải vĩnh viễn nằm lại với Hoàng Sa như bao bạn tàu khác, ông còn thấy dễ chịu hơn nếu không được ra khơi. Bởi vậy, đầu năm 2011, sau lần bị Trung Quốc bắt giam, thu tàu lần thứ năm, trở về ông Lưu lại cầm cố ngôi nhà để vay mượn ngân hàng, sắm lại con tàu mới với quyết tâm bám biển cùng 2 con trai và con rể.
Ông trở thành nhân vật điển hình, không chỉ chính quyền trong và ngoài nước quan tâm, đồng nghiệp ngưỡng mộ mà cánh nhà báo khi ra Lý Sơn không người nào không tìm gặp.

Hôm ấy, rượu Vú Nàng thơm ngon lạ thường, hải sản ngọt lịm nhưng vẫn không làm tôi ngây ngất bằng những nắm cát vàng ông Lưu khoe đã mang về từ các đảo ở Hoàng Sa. Lưu kể, vào những ngày đầu tháng ba yên bình năm 2011, cha con ông đã vào Hoàng Sa, mang hương lên thắp ở đảo Ông Già, Trụ Cẩu... khấn vái thổ địa, hương linh ông bà, các thế hệ cha anh là con dân Lý Sơn đã nằm lại ngoài đấy để rồi xin xúc những bao cát vàng về... làm kỷ niệm.
Yêu biển, nhớ đảo như cha con ông Lưu thì không thể có mỹ từ nào diễn tả hơn. Nói như Chủ tịch Tổng LĐLĐVN Đặng Ngọc Tùng trong lần phát biểu tại lễ thành lập Nghiệp đoàn Nghề cá An Hải: “Vùng biển Hoàng Sa như cái ao làng, như ruộng lúa, như vườn rau... của ngư dân Lý Sơn. Hoàng Sa không chỉ là ngư trường đánh bắt truyền thống, là nơi tìm miếng cơm, manh áo cho gia đình, mà còn là nghĩa trang của bao thế hệ con dân Lý Sơn, ngư dân ven biển miền Trung”.
Bởi vậy, dù Hoàng Sa luôn tràn đầy trong ký ức, trong toan tính thường trực của ông Lưu mỗi ngày để lo đường cơm áo, ra biển đánh bắt hải sản, nhưng cứ vào bờ ông lại cảm thấy trống vắng, nhớ biển, nhớ Hoàng Sa.
Những nắm cát vàng ươm ông mang về từ quần đảo tươi đẹp mà trầm luân của tổ quốc trở thành vô giá, là chỗ dựa tinh thần cho ông trong những ngày biển động.
Ngoài ra, ông Lưu còn kỳ công chở một gốc cây phong ba khô từ đảo Phú Lâm về đặt trang trọng giữa phòng khách để có cảm giác luôn gần với Hoàng Sa.
Tôi chợt liên tưởng việc ông Lưu mang những nắm cát vàng, gốc cây phong ba từ Hoàng Sa về nhà mình cũng giống như HĐND TP.Đà Nẵng quyết định đặt tên đường Hoàng Sa, Trường Sa cho những con đường to đẹp nhất ven biển.
Như Quảng Nam đặt tên trường tiểu học ở một địa phương ven biển là Hoàng Sa, như Quảng Ngãi đem các chương trình giáo dục lịch sử, văn hoá, địa lý Hoàng Sa vào các trường học, như Quân chủng Hải quân vẫn tặng đá chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa cho các tỉnh ven biển..., như những nhà nghiên cứu, giới trí thức đang cùng nhà nước tìm những vật chứng, tài liệu để minh chứng Hoàng Sa có chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam.

Chia tay nhau, ông Lưu hẹn sẽ cập cảng Đà Nẵng để được gặp lại. Cái bắt tay siết chặt, thân tình của Lưu làm tôi chợt sợ, trộm lo đấy là lần chia tay cuối cùng với anh. Bởi mỗi lần ra khơi là một lần đối mặt với bao hiểm nguy biển cả, thiên tai.
Những năm gần đây, ngư dân luôn đối mặt thêm với mối hiểm nguy mới có tên "tàu lạ". Tôi chạnh lòng, thương mến Mai Phụng Lưu - con người cô độc này vô cùng. Có lẽ như đoán được điều gì đấy mơ hồ qua ánh nhìn của tôi, Lưu động viên ngược lại: "Tôi sẽ ghé Đà Nẵng trong chuyến cập bờ tới, mình sẽ nhậu cá đem về từ Hoàng Sa, anh giới thiệu cho tôi được gặp Chủ tịch UBND huyện Hoàng Sa Đặng Công Ngữ nhé. Tôi sẽ xin ông ấy công nhận tôi là công dân chính thức của Hoàng Sa".

Thật ra, cứ đến hẹn lại lên, mỗi năm, Sở Nội vụ, Văn phòng đại diện UBND huyện đảo Hoàng Sa, TP.Đà Nẵng lại họp mặt những nhân chứng từng sống, làm việc tại Hoàng Sa vào dịp cận Tết Nguyên đán.
Thành viên này đăng ký ở UBND huyện đảo Hoàng Sa mỗi năm thêm vài người mới phát hiện, nhưng danh sách ấy lại bị ngắn đi, bởi nhiều cụ đã quá tuổi ở dương trần. Trong khi đó, những công dân của huyện đảo Hoàng Sa đương đại, đang sống, bám biển và khai thác hải sản trên vùng biển Hoàng Sa phần lớn lại là ngư dân của Lý Sơn, Quảng Ngãi.
Bởi vậy, khi ngư dân Mai Phụng Lưu đề nghị được đăng ký là công dân chính thức của Hoàng Sa đã làm chúng tôi thực sự xúc động. Khi nói ra đề nghị ấy, ông Lưu không hề có chút ý bông đùa. Tất nhiên, chẳng cần thực hiện các thủ tục hành chính cần thiết như nhập khẩu về Đà Nẵng, Mai Phụng Lưu và hàng ngàn ngư dân khác của Quảng Ngãi vẫn là công dân của Hoàng Sa rồi.
Nguồn VIETNAMNET

/
Lên đầu trang
Vào giữa trang
Xuống cuối trang