Thứ Hai, 30 tháng 6, 2014

Lời chia sẻ trước khi ra đi của một bác sĩ bị ung thư

Bác sĩ Richard Teo Keng Siang, 40 tuổi, triệu phú ngành giải phẫu thẩm mỹ ở Singapore, phát hiện bị ung thư phổi giai đoạn cuối khi ở đỉnh cao nhất của tiền tài, danh vọng.
Từ nhỏ, bác sĩ Richard Teo luôn đứng đầu trường trong mọi môn học, từ khoa học đến thể thao. Khi vào ngành y, ông chọn giải phẫu thẩm mỹ vì lợi nhuận của nó vượt qua các ngành nghề khác. Ông trở thành một triệu phú chóng vánh.
Tháng 3/2011, bác sĩ Richard Teo được chẩn đoán bị ung thư phổi giai đoạn cuối. Ông qua đời cuối năm 2012. Câu chuyện cảm động và những lời chia sẻ của ông trước khi mất vài ngày đã và đang được thanh niên khắp nơi theo dõi, lan truyền trên các trang mạng xã hội, được dịch ra nhiều thứ tiếng.
Dưới đây là trích đoạn những tâm sự của bác sĩ Richard Teo về tiền tài, danh vọng, hưởng thụ... với sinh viên tại khóa Nha khoa D1 ở Singapore, tháng 11/2011, 8 tháng sau khi bị chẩn đoán ung thư:
"Tôi lớn lên trong một gia đình có mức sống dưới trung bình. Tôi học được từ mọi người xung quanh và môi trường sống rằng có thành công thì mới hạnh phúc. Thành công có nghĩa là giàu có. Với suy nghĩ này, tôi luôn ganh đua ngay từ nhỏ.
Không chỉ học ở trường giỏi, tôi cần thành công trong mọi lĩnh vực, từ các hoạt động tập thể đến chạy đua. Tôi cần đoạt được cúp, phải được giải cao nhất. Tôi vào trường y và trở thành bác sĩ. Chắc một số em biết rằng trong ngành y, giải phẫu mắt là một trong những chuyên khoa khó vào nhất. Tôi đã vào được và đạt học bổng nghiên cứu của Đại học quốc gia Singapore.
Trong khi nghiên cứu, tôi có hai bằng phát minh, một về dụng cụ y khoa và một về tia lasers. Nhưng tất cả các thành tựu này không mang lại cho tôi sự giàu có. Sau khi học hoàn tất, tôi thấy theo đuổi ngành phẫu thuật mắt mất quá nhiều thời gian trong khi ra ngoài làm tư kiếm được nhiều tiền hơn. Tôi quyết định bỏ ngành giải phẫu mắt giữa chừng và nhảy qua mở trung tâm giải phẫu thẩm mỹ trong tỉnh.
Một người có thể không vui vẻ khi trả 20 USD cho một bác sĩ tổng quát nhưng không ngần ngại trả 10.000 USD để hút mỡ bụng, 15.000 USD sửa ngực… Do vậy, thay vì chữa bệnh, tôi quyết định trở thành người sửa sắc đẹp. Công việc làm ăn rất khấm khá. Bệnh nhân đến rất đông. Tôi mướn một, hai, ba rồi bốn bác sĩ. Chỉ trong vòng năm thứ nhất, chúng tôi đã lên hàng triệu phú. Nhưng chẳng thể nào là đủ vì tôi trở nên mê muội. Tôi bắt đầu bành trướng sang thị trường Indonesia để làm phẫu thuật cho những người giàu ở đó. Họ phung phí tiền bạc một cách dễ dàng. Làm tiền ở đó quá dễ...
Tôi làm gì với mớ tiền dư thừa? Cuối tuần tôi tiêu khiển ra sao? Thông thường tôi đến tụ tập tại câu lạc bộ đua xe hơi. Thỉnh thoảng tôi dự đua xe ở Sepang, Malaysia. Tôi mua một chiếc Ferrari 430. Sau khi có xe, tôi mua nhà, khu nghỉ mát. Tôi nghĩ phải hòa nhập với những người giàu có, nổi tiếng và bắt đầu giao tiếp với mỹ nhân, người giàu sang và danh tiếng, như hoa hậu thế giới hay người sáng lập mạng internet, ăn uống ở mọi nhà hàng kể cả nhà hàng nổi tiếng của đầu bếp Michelin.
Tôi đã có được mọi thứ trong cuộc sống, đến tột đỉnh của sự nghiệp. Đó là tôi của một năm trước đây. Khoảng tháng 3 năm ngoái, đột nhiên tôi bị đau lưng. Tôi nghĩ chắc tại mình hay vận động mạnh. Tôi đến Bệnh viện đa khoa Singapore và nhờ bạn học chụp cộng hưởng từ để xem có phải bị trật đốt sống hay không. Rồi tôi thực hiện PET scans và được phát hiện đang ở giai đoạn 4 của ung thư phổi. Tôi được cho biết, ngay cả với hóa trị, tôi cũng chỉ còn được 3,4 tháng tối đa. Tôi chán nản, tuyệt vọng.
Điều mâu thuẫn là mọi thứ tôi có - sự thành công, cúp thưởng, xe cộ, nhà cửa - tất cả những thứ tôi nghĩ mang hạnh phúc - khi tôi xuống tinh thần, tuyệt vọng, không mang đến cho tôi niềm vui. Tôi chẳng thể ôm chiếc Ferrari ngủ. Chúng không mang lại một sự an ủi nào trong những tháng cuối cùng của cuộc đời tôi. Điều thật sự mang lại cho tôi niềm vui trong mười tháng cuối cùng là tiếp xúc với người thân, bạn bè, những người chân thành chăm sóc tôi, cười và khóc cùng tôi. Họ có thể nhìn thấy sự đau đớn, chịu đựng mà tôi phải trải qua. 
Để tôi chia sẻ với các em một câu chuyện khác. Khi tôi bằng tuổi các em, tôi ở khu King Edward VII. Tôi có một người bạn khá lạ lùng tên là Jennifer. Khi chúng tôi đi bộ, nếu thấy một con ốc sên trên đường, cô ta sẽ nhặt nó lên và đặt lại trong thảm cỏ. Tôi thắc mắc tại sao phải làm thế, sao phải bẩn tay chỉ vì một con ốc sên? Sự thật là cô ta đã cảm được rằng con ốc có thể bị đạp nát chết nếu nằm đó. Đối với tôi, nếu không tránh đường thì đáng bị đạp nát, chỉ là luật tự nhiên thôi. Đối ngược nhau quá, phải không?
Tôi được huấn luyện thành bác sĩ để có từ tâm, đồng cảm nhưng tôi không có. Là một bác sĩ trực trong bệnh viện chuyên trị ung thư NUH (National University Hospital) tôi từng chứng kiến bao nhiêu người chết. Tôi đã thấy họ đau đớn và chịu sự tàn phá của cơ thể vì cơn đau. Tôi cũng đã chứng kiến bệnh nhân nhấn nút morphine tiêm vào máu từng giờ từng phút vì không chịu nổi sự đau đớn dày vò. Nhiều bệnh nhân phải dùng oxygene để thở hơi thở cuối cùng. Nhưng đó là công việc. Khi xong việc tôi chỉ muốn chạy ngay về nhà vì nghĩ là đã hoàn tất công việc hằng ngày.
Tôi thực sự không hiểu họ đau đớn như thế nào cho đến khi tôi là bệnh nhân. Nếu được làm lại từ đầu với cương vị một bác sĩ, tôi sẽ đổi khác. Vì tôi đã trải qua cơn đau đớn mà bệnh nhân vấp phải nên tôi rất hiểu họ chịu đựng sự dày vò của đau đớn như thế nào.
Ngay khi các em vào năm thứ nhất, bắt đầu hành trình để trở thành nha sĩ giải phẫu, cho phép tôi thử thách các em hai điều.
Hiển nhiên, tất cả các em ở đây sẽ bắt đầu đi làm tư. Các em sẽ thành giàu có. Tôi bảo đảm với các em rằng, chỉ trồng răng, các em kiếm được bạc ngàn, mớ tiền không tưởng được. Và thật ra, không có gì sai trái với thành công, giàu có. Điều phiền toái duy nhất là nhiều người chúng ta, như bản thân tôi, không thể kiềm chế được.
Tại sao tôi nói như vậy? Bởi vì càng tích tụ, càng có nhiều, tôi lại muốn nhiều hơn. Càng ham muốn, tôi càng trở nên mê muội. Tôi trở nên mê muội đến nỗi chẳng còn việc gì thành vấn đề đối với tôi nữa. Bệnh nhân chỉ là một nguồn lợi tức và tôi vắt cạn từng xu từ họ.
Nhiều khi chúng ta quên mất mình cần phục vụ ai. Chúng ta lầm lạc đến nỗi chẳng phục vụ ai ngoài chính mình. Điều đó đã xảy ra với tôi. Trong khi khám bệnh, đôi khi chúng ta khuyên bệnh nhân chữa trị bệnh không hẳn có, không rõ rệt và ngay cả khi không cần thiết.
Ngay tại thời điểm này, tôi biết ai là bạn tôi, chân thành lo lắng cho tôi và ai chỉ muốn làm tiền tôi bằng cách bán buôn “hy vọng” cho tôi. Chúng ta đánh mất lương tâm vì chúng ta chỉ muốn kiếm tiền.
Tệ hại hơn, tôi có thể kể cho các em nghe, vài năm vừa qua, chúng tôi đã nói xấu đồng nghiệp, hạ thấp họ xuống để nâng mình lên. Điều đó đang xảy ra trong ngành y và ở mọi nơi. Tôi thử thách các em không để đánh mất lương tâm mình. Tôi trả giá đắt cho bài học này. Và tôi hy vọng các em sẽ không bao giờ phải như vậy.
Thứ hai là đa số chúng ta khi bắt đầu công việc đều chưa có "cảm giác" đối với bệnh nhân. Cho dù trong bệnh viện hay nhà thương tư cũng có vô số bệnh nhân để chữa trị. Tôi chỉ muốn bệnh nhân rời phòng làm việc của tôi càng sớm càng tốt. Đó là sự thật và trở thành một công việc bình thường hằng ngày.
Tôi đã thực sự hiểu bệnh nhân nghĩ về mình thế nào chăng? Thực ra là không. Nỗi lo sợ và lo âu của bệnh nhân và những thứ khác mà họ đã trải qua. Thực ra tôi cũng không biết đến khi tôi lâm trọng bệnh và đó là một sai lầm to nhất của hệ thống y khoa tân tiến. Chúng ta được huấn luyện để trở thành những chuyên gia y cũng như nha khoa nhưng chúng ta lại không hiểu bệnh nhận cảm nhận chúng ta như thế nào.
Tôi không đòi hỏi các em phải xúc động, vì như vậy cũng không chuyên nghiệp, mà chỉ hỏi chúng ta có thật sự cố gắng tìm hiểu nỗi đau đớn của họ không? Phần lớn là không, tôi có thể chắc chắn như vây. Do đó, tôi thử thách các em luôn đặt mình vào cương vị của bệnh nhân.
Bởi vì sự đau đớn, nỗi lo lắng, sợ hãi rất thực với họ mặc dù không thực đối với các em. Ngay hiện giờ, tôi đang chữa hóa trị lần thứ 5. Tôi có thể cho các em biết nó rất kinh khủng. Hóa trị là thứ các em không muốn ngay cả kẻ thù của mình phải trải qua vì bị hành, đau đớn, ói mửa. Cảm giác khủng khiếp. Và bây giờ, với chút năng lực còn lại, tôi tìm đến các bệnh nhân ung thư khác vì tôi thật sự hiểu được họ đau đớn, chịu đựng như thế nào. Hơi muộn màng và ít ỏi.
Các em có cả tương lai sáng lạn phía trước với tất cả tài năng và nhiệt huyết. Tôi thử thách các em, ngoài bệnh nhân của mình, hiểu thêm rằng có nhiều người ngoài kia đang thật sự đau đớn, thật sự khó khăn, đừng nghĩ rằng chỉ có người nghèo mới phải khổ. Điều này không đúng. Những người nghèo khó vốn sẵn không có gì, họ dễ dàng chấp nhận. Do đó, họ hạnh phúc hơn các em và tôi. Nhưng có nhiều người đang đau khổ về tâm thần, thể xác, tình cảm, vật chất... Chúng ta lựa chọn làm lơ hoặc chúng ta không muốn biết đến sự hiện hữu của họ.
Do đó đừng quên, khi các em được thành danh, hãy với tay đến những người cần sự giúp đỡ. Bất cứ việc gì các em làm điều có thể mang đến sự khác biệt lớn cho họ. Bây giờ tôi ở vị trí của người tiếp nhận, tôi hiểu rõ, thấy khác khi có người thật sự chăm lo, khuyến khích mình. Nhờ vậy mà tôi vẫn có thể nói chuyện với các em hôm nay.
Mọi người đều biết rằng sẽ có ngày phải chết, chúng ta ai cũng biết như vây. Nhưng sự thật, không ai tin, vì nếu tin chúng ta đã sống một cách khác. Khi tôi phải đối diện với cái chết, tôi lột bỏ mọi thứ, chỉ tập trung vào thứ thiết yếu. Thật trái ngược rằng, chỉ khi sắp chết thì mình mới biết nên sống như thế nào. Tôi biết điều này nghe qua thật mơ hồ, nhưng đó là sự thật và tôi đang trải qua.
Đừng để xã hội bảo ban các em cách sống. Đừng để môi trường bắt các em phải làm gì. Điều này đã xảy ra cho tôi. Tôi tưởng như vậy là hạnh phúc. Tôi hy vọng các em suy nghĩ lại và sẽ tự quyết định cuộc sống của chính các em. Không phải do người khác bảo ban mà là các em quyết định, sống cho mình hay mang đến sự tốt đẹp cho đời sống của người khác. Hạnh phúc thật sự không có được khi chỉ sống cho mình. Sự thật không như tôi đã tưởng.

Tôi xin tóm lược, trong cuộc sống, chúng ta biết sắp xếp thứ tự trước sau càng sớm, càng tốt. Đừng giống như tôi. Tôi không còn cách nào khác và đã phải trả giá đắt cho bài học...".
Sưu tầm by admin



Đọc xong những lời chia sẻ từ trong tim của bs tôi đã lặng người đi và dường như đã tìm được câu trả lời cho biết bao câu hỏi của mình từ trước đến giờ !. Vậy là mọi thứ trong cuộc sống chỉ là vô thường, không tồn tại vĩnh cửu, nay có mai mất, nay giầu mai nghèo, nay khoẻ mai ốm, nay sống mai chết...Do đó khi ta đang được sống đang có hơi thở thì cần biết yêu thương đồng loại và mọi chúng sinh, biết đồng cảm và sẻ chia, không tự cao tự đại, không tham lam sân hận để ta luôn được thấy thanh thản tâm hồn được ung dung tự tại giữa cuộc sống này! 


Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2014

Không quân VN sắp nhận máy bay C-295 đầu tiên?

Với tiến độ chế tạo nhanh, có khả năng  Việt Nam sẽ nhận được chiếc máy bay vận tải quân sự C-295 đầu tiên vào cuối năm nay.
Phát biểu với tạp chí Flight Global hồi đầu tháng 6 vừa qua, Giám đốc công ty Airbus DS (công ty con của Tập đoàn hàng không Airbus châu Âu), ông Antonio Rodríguez Barberán cho biết rằng, hiện nay, tại cơ sở chế tạo máy bay của công ty ở gần San Pablo (Tây Ban Nha) đang trong giai đoạn lắp ráp cuối cùng đối với 3 chiếc máy bay vận tải C-295 (một cho Ecuador, một cho Ai Cập và chiếc còn lại cho Không quân Việt Nam). Ngoài ra còn có một chiếc CN-235 cũng đang được chế tạo cho lực lượng bảo vệ bờ biển Hoa Kỳ.
Ông Barberán chính thức tiết lộ rằng, Ecuador và Việt Nam là hai trong nhiều khách hàng mới, đã đặt mua 3 máy bay vận tải C-295 của Airbus DS cho mỗi nước. Trong đó, riêng Ecuador đã nhận được chiếc C-295 đầu tiên vào hôm 6/6 vừa qua, hai chiếc còn lại sẽ được tiếp tục bàn giao cho quốc gia này vào cuối năm nay.
Không quân Việt Nam sẽ được tăng cường đáng kể sức mạnh sau khi biên chế thêm 3 máy bay vận tải quân sự C-295 của châu Âu.
Mặc dù ông Barberán không tiết lộ thời điểm bàn giao máy bay C-295 đầu tiên cho Không quân Việt Nam, tuy nhiên chiếc C-295 thứ hai của Ecuador cùng chiếc đầu tiên cho Việt Nam đang trong giai đoạn lắp ráp cuối cùng cho thấy, có khả năng cao chúng ta cũng sẽ nhận được một máy bay vận tải quân sự đầu tiên của châu Âu vào cuối năm nay.
Giám đốc Airbus DS cho cho biết rằng, trong năm 2014 công ty này nhận được các hợp đồng để cung cấp tổng cộng lên tới 20 chiếc máy bay vận tải quân sự C-295 cho các khách hàng khác nhau. Số máy bay mới được đặt hàng này đồng nghĩa với việc Airbus phải hoạt động gần như hết công suất để đáp ứng yêu cầu bàn giao của các khách hàng cho năm 2014 và 2015. Chính vì vậy, không ngoại trừ khả năng 2 chiếc C-295 thứ hai và thứ ba cũng sẽ tiếp tục được bàn giao cho Không quân Việt Nam vào năm tới.
C-295 là một máy bay vận tải quân sự đa năng hạng trung được thiết kế cho nhiệm vụ vận tải hàng hóa quân sự, binh lính ra chiến trường, cứu thương. Ngoài ra, nó còn được dùng làm nền tảng phát triển biến thể tuần tra - chống ngầm trên biển C-295MPA Persuader và biến thể cảnh báo sớm - chỉ huy trên không C-295 AEW&C. C-295 có chiều dài 24,5 mét, sải cánh 25,81 mét, cao 8,6 mét, trọng lượng cất cánh tối đa 23,2 tấn.
Máy bay này được trang bị 2 động cơ phản lực cánh quạt PW127G Hamilton Standard 586-F có công suất 2.650 mã lực/chiếc, giúp C-295 có thể đạt tốc độ tối đa 576 km/h, tốc độ hành trình 480 km/h.
Khoang hàng hóa của C-295 có thể lắp đặt 2-3 hàng ghế gập lại được mang theo 48 lính dù với đầy đủ trang bị hoặc 75 binh lính thông thường. Máy bay có 2 cửa nhảy dù một ở bên hông và một ở sau đuôi, khoang hàng hóa được điều áp đầy đủ. Khoang hàng hóa cũng có thể cấu hình cho nhiệm vụ y tế với ít nhất 27 cáng và 4 nhân viên y tế. Nó cũng có thể cấu hình cho chăm sóc y tế đặc biệt cho 12 bệnh nhân.
C-295 được trang bị 2 động cơ tuốc bin cánh quạt Pratt & Whitney PW127G với cánh quạt composite 6 lá HS-568F-5, tốc độ tối đa đạt 576 km/h, tầm bay đạt 4.600 km (nếu mang 3 tấn hàng) hoặc 3.700 km (nếu mang 6 tấn hàng) hoặc chỉ đạt 1.300 km nếu mang tối đa tải trọng, trần bay đạt 9.100m. Đặc biệt là C-295 chỉ cần quãng đường cất hạ cánh ngắn, dưới 1 km (lần lượt là 670m và 320m).
Với khả năng hoạt động tuyệt vời đã được chứng thực của C-295 thì việc biên chế loại máy bay này sẽ tạo ra nhiều sức mạnh mới cho Không quân Việt Nam trong những năm tới.
Nguồn Baodatviet

Biển Đông nổi sóng:Chiến lược 'hòa bình chủ động' của Việt Nam

Việt Nam phải chủ động tham gia vào các cơ chế quốc tế về an ninh, chính trị mới có đủ sức mạnh bảo vệ hòa bình như mong muốn.
Hữu nghị viễn vông và nền hòa bình kiểu Trung Quốc
Tân Hoa xã đã đưa ra "4 không" trước chuyến đi của Dương Khiết Trì sang Việt Nam cùng với thông điệp cứng rắn, không thiện chí, trong các sai phạm của Trung Quốc trên Biển Đông:  “Thứ nhất, không được đánh giá thấp quyết tâm và năng lực bảo vệ của Trung Quốc với các đảo trên Nam Hải (Biển Đông; Thứ hai, không được sử dụng các tư liệu mà Việt Nam tự nhận là “tư liệu lịch sử” để gây hiểu lầm cho cộng đồng quốc tế và dư luận Việt Nam về chủ quyền ở Tây Sa, Nam Sa (Hoàng Sa, Trường Sa); Thứ ba, không được lôi kéo các nước khác can thiệp vào Nam Hải; Cuối cùng là không được phá bỏ mối quan hệ Việt Trung sau 20 năm bình thường hóa quan hệ”.
 Đương nhiên, thái độ, giọng điệu láo xược của đại Hán khi chưa bị “no đòn” qua giới truyền thông Trung Quốc (như Tân Hoa xã nêu trên…) và các học giả, tướng lĩnh khi “chưa thấy quan tài…” thì Việt Nam đã nghe quen tai từ lâu và chúng ta không cần quan tâm.
Vấn đề rất quan trọng ở đây là chúng ta nghe, hiểu, để biết được “nền hòa bình Trung-Việt” là nền hòa bình kiểu gì, mối quan hệ hữu nghị Việt-Trung là hữu nghị kiểu gì…để căn cứ vào thế, lực của chúng ta hiện nay đến đâu mà phấn đấu gìn giữ hay dứt khoát loại bỏ.
Từ năm 1949 đến năm 1979, quan hệ “hữu nghị” Việt-Trung đã quá rõ trong sách trắng “30 năm quan hệ Việt Nam-Trung Quốc”. Và từ đó đến nay sự “hữu nghị” của Việt Nam-Trung Quốc cũng quá rõ dù chưa viết thành sách. Vậy, một nền hòa bình trên nền tảng của mối quan hệ “hữu nghị” như thế sẽ là một nền hòa bình kiểu gì?
Hai tàu chấp pháp Trung Quốc chiếc thì phun vòi rồng, chiếc thì đâm húc tàu Kiểm Ngư Việt Nam trên Biển Đông. Hành động “hữu nghị” kiểu đại Hán?
Tư tưởng đại Hán này của Trung Quốc chúng ta được biết qua “4 không” nêu trên là qua báo chí, nhưng chưa hết, chắc chắn sẽ còn phát tiết qua cấp “vĩ mô” mà người dân không được nghe, không biết…nhưng như thế là đã quá đủ cho một nhận thức.
Thủ tướng Việt Nam tuyên bố: “…Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”. Đây là tuyên bố mà dân tộc Việt đã phải kiên trì, chờ đợi, là tuyên bố mà đồng bào Việt Nam, nhân dân Việt Nam ai cũng hiểu sâu sắc nhất mà không cần giải thích, không cần thông tư, nghị định hướng dẫn nào hết. Không nghi ngờ gì nữa, dân tộc Việt đã kết thành một khối.
Có thể nói đây là một tuyên bố khẳng định tính minh bạch, ý chí và nguyện vọng, nguyên tắc nhất quán của Việt Nam trong mối quan hệ với Trung Quốc-một nước lớn láng giềng đầy duyên nợ.
Đừng có đặt vấn đề tại sao không phải là trước đây mà để đến tận bây giờ, bởi vì, nếu như đó là một cuộc cách mạng, một sự thay đổi…thì tất cả đều phải có sự chuẩn bị về lượng, có đủ lượng mới thay đổi được chất, phải có “giọt nước cuối cùng” để chuyển hóa… Cho nên, tuyên bố của Thủ tướng Việt Nam đã xuất phát từ cơ sở vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, từ thế và lực của Việt Nam trong khả năng giữ vững nền độc lập tự chủ, khả năng xây dựng, duy trì một “nền hòa bình chủ động”…trong tình thế “giọt nước cuối cùng làm tràn ly” là giàn khoan Hải Dương 981 đã ngang ngược bất chấp hạ đặt trong thềm lục địa sâu trong EEZ của Việt Nam. Đó chính là thời cơ là vận nước đã đến.
Đã đến lúc Việt Nam phải chấp nhận “phẫu thuật” khối u dù phải đau và tốn kém.
Phải, không đau sao được khi nhìn một quả dưa hấu mà trâu bò ăn không hết ở cửa khẩu phía Bắc, không đau sao được khi những quả vải đỏ au của người dân đang nghẹn chật con đường, không đau sao được khi lúa của người nông dân bị mua với giá rẻ…Đau lắm, tốn kém lắm, nhưng phải “phẫu thuật” để chúng ta sẽ có một cơ thể khỏe mạnh, tự chủ…để con tim Việt Nam không bao giờ ứa máu như đã từng trước hình ảnh của “Vòng tròn bất tử Gạc Ma”.
Láng giềng hữu nghị và hòa bình chủ động
Việt Nam chỉ không chấp nhận một quan hệ “hữu nghị viễn vông” nhưng rất hoan nghênh mối quan hệ láng giềng hữu nghị với Trung Quốc. Mối quan hệ hữu nghị thực sự phải là: tôn trong độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hợp tác phát triển đôi bên cùng có lợi.
Đương nhiên, nền hòa bình dựa trên nền tảng hữu nghị như vậy mới thực sự bền vững cho 2 dân tộc.
Trung Quốc là nước lớn, là cường quốc, là quốc gia có “núi liền núi, sông liền sông” với Việt Nam. Việt Nam muốn hòa bình (với Trung Quốc), nhưng bản chất của Trung Quốc là không thay đổi là bành trướng, cậy mạnh, để thôn tính Biển Đông thì không bao giờ có được mối quan hệ hữu nghị láng giềng thực chất và đúng chuẩn quốc tế. 
Việt Nam yêu chuộng hòa bình nhưng để có được một nền hòa bình không lệ thuộc thì chỉ còn cách là phải thực hiện chiến lược “hòa bình chủ động”.
Hòa bình chủ động là gì? Đó là, về đối nội phải tăng cường sức mạnh răn đe ngăn ngừa chiến tranh, về đối ngoại là sự chủ động tham gia vào các cơ chế quốc tế về kinh tế đồng thời quan trọng hơn, là về cả an ninh lẫn chính trị.
Nền hòa bình chủ động chúng ta có được là bằng sức mạnh răn đe ngăn ngừa chiến tranh, là ý chí, khả năng giáng trả kẻ thù để bảo vệ nó. Khác với nền hòa bình chủ động, nền hòa bình thụ động chỉ có được chỉ bằng sự nhân nhượng, đổi chác lợi ích.
Hãy xem Nhật Bản. Trên lý thuyết, được bảo vệ dưới cái ô an ninh của Mỹ, nước Nhật khó bị đe dọa, nhưng sự trỗi dậy của Trung Quốc cùng với các yêu sách chủ quyền hung hăng từ Bắc Kinh khiến cho nước Nhật chắc chắn không bao giờ chấp nhận một vai trò thụ động và chỉ trông chờ vào người Mỹ, ngay dù Mỹ là đồng minh, huống chi, thụ động trông chờ vào Trung Quốc-đối tượng tác chiến trực tiếp?
Mối quan hệ Nhật Bản-Ấn Độ, Nhật Bản-Úc, Nhật Bản-Philipines, Indonesia, Việt Nam để tiến hành “hòa bình chủ động” với Trung Quốc đã và đang chứng tỏ điều đó.
Trong khi đó, Việt Nam không có ô an ninh nào, nói cách khác là Việt Nam chưa tham gia vào một “cơ chế” an ninh, chính trị nào trong khu vực. Nếu sức mạnh (tổng hợp) răn đe ngăn ngừa chiến tranh hạn chế, chưa đủ sức làm cho kẻ thù phải trả giá đắt không chịu đựng nổi thì một nền hòa bình, nếu có, với Trung Quốc cũng chỉ là thụ động mà thôi, không thể khác được, trừ phi Trung Quốc thay đổi bản chất.
 Bởi vậy dứt khoát Việt Nam phải xây dựng một chiến lược "Hòa bình chủ động" trong tình hình Trung Quốc đang ngày càng trắng trợn, hung hăng thôn tính Biển Đông như hiện nay nếu như muốn có một nền hòa bình đúng nghĩa, đúng chuẩn quốc tế.
Lê Ngọc Thống

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2014

Trung Quốc la làng khi Hải quân Việt Nam-Philipines giao lưu

Trung Quốc đang lo sợ Nhật Bản-Việt Nam và Philipines liên thủ với nhau trên Biển Đông

Cách đây 43 năm, tháng 4/1971, vào lúc cao điểm của Chiến tranh Lạnh và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ bị phá sản tại miền Nam Việt Nam thì cả thế giới kinh ngạc khi đội tuyển bóng bàn Mỹ được đối thủ không đội trời chung Trung Quốc mời tới thi đấu ở Bắc Kinh.
Đội bóng bàn của Mỹ cùng các phóng viên tháp tùng đã trở thành những mũi tên đầu tiên xuyên thủng bức tường thù địch giữa hai quốc gia, tạo điều kiện cho chuyến thăm lịch sử của tổng thống Mỹ khi đó là Richard Nixon 10 tháng sau đó.
Trong lịch sử, chưa bao giờ thể thao được sử dụng làm công cụ thúc đẩy ngoại giao một cách hiệu quả đến vậy. Và, thế giới đặt tên cho sự kiện này biệt danh "ngoại giao bóng bàn".

Mao và R.Nixon. Cú bắt tay đầy máu nhân dân Việt Nam
'Ngoại giao bóng bàn' nhuốm máu nhân dân Việt Nam
Mười tháng sau trận “đấu bóng bàn”, thế giới đã chứng kiến cú bắt tay của Chủ tịch Mao và Richard Nixon tại Trung Quốc. Một “Thông cáo chung Thượng Hải” mà Trung Quốc ký với Mỹ ngày 28/02/1972 ra đời. Theo đó có 3 nội dung cần quan tâm, nói là quan tâm bởi vì 3 nội dung này Mỹ và Trung Quốc đều “thỏa thuận trên lưng nhân dân Việt Nam”:
Thứ nhất, Trung Quốc cam kết không can thiệp quân sự vào Đông Dương, đổi lại Hoa Kỳ cam kết cùng Trung Quốc chống bá quyền Liên Xô.
Thứ hai, Trung Quốc chấp nhận kiềm chế Việt Nam, đổi lại, Hoa Kỳ hạn chế, đi đến triệt tiêu các căn cứ quân sự, và quân đội Hoa Kỳ tại Đài Loan.
Thứ ba, Trung Quốc chấp nhận để Hoa Kỳ giữ nguyên chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, không ủng hộ việc thành lập Chính phủ Liên hiệp miền Nam sau khi có Hiệp định về hòa bình ở Việt Nam, đổi lại, Hoa Kỳ ủng hộ Trung Quốc giữ ghế thành viên cố định tại Hội đồng Bảo an liên hợp quốc, thay Đài Loan. (Thực chất duy trì tình trạng chia cắt 2 miền Nam-Bắc Việt Nam)
Như vậy, đến đây, Bắc Việt Nam chỉ còn Liên Xô và Mỹ “chỉ còn việc nhìn về Mátxcơva để nghiền nát Việt Nam”.
Rõ ràng Trung Quốc đã “bán đứng Việt Nam” để thu được một món lợi rất lớn mà bằng khả năng Trung Quốc, họ không bao giờ có được. Ai mang ơn ai?
Nhưng Mỹ bị mắc 2 sai lầm nghiêm trọng dẫn đến bị “hố” trong “Thông cáo Thượng Hải”:
Một là, Mỹ không hiểu dân tộc Việt. Việt Nam từ cổ chí kim, đối với Trung Quốc, sách lược có thể mềm dẻo nhưng chưa bao giờ khuất phục Trung Quốc mà luôn luôn thực hiện một nguyên tắc bất di bất dịch “độc lập dân tộc”. Mỹ chẳng hiểu gì về lịch sử hơn 4000 năm giữ nước của Việt Nam, dân tộc này đánh nhau liên miên với ai chẳng lẽ vì điều khác sao?.
Hai là, Trung Quốc lúc đó chẳng ghê gớm gì như Mỹ tưởng. Trung Quốc có muốn cũng không thể giúp gì cho Việt Nam bắn rơi B52 và thậm chí nếu như Mỹ lúc đó đem B52 rải thảm ở Bắc Kinh thì đó mới là nơi biến thành “thời kỳ đồ đá” chứ không phải Hà Nội.
Rốt cuộc, đánh giá 3 nội dung trong Thông cáo Thượng Hải ta thấy, nội dung thứ nhất, Mỹ được lợi hơn Trung Quốc, vì không cam kết thì Mỹ vẫn chống Liên Xô, còn Trung Quốc thì việc chống Liên Xô hay Nga bây giờ là vấn đề tất yếu, Mỹ không cần khuyến khích, nhắc nhở.
Nội dung thứ hai thì cả hai đều có lợi, đã có kết quả như mong muốn. Trung Quốc chỉ cần cắt giảm viện trợ hoặc gây khó khăn cho Việt Nam khi tiếp nhận hàng viện trợ từ Liên Xô thì coi như là kiềm chế sự tấn công của Bắc Việt. Điều này nằm trong tầm tay của 2 bên mà không phụ thuộc vào Việt Nam có muốn hay không.
Nội dung thứ ba thì Trung Quốc và Mỹ đều thất bại trong âm mưu duy trì tình trạng chia cắt 2 miền Nam-Bắc Việt Nam. Đương nhiên rồi, vì quyết định không phải do ý muốn chủ quan của Trung-Mỹ mà là do dân tộc Việt Nam quyết định.
Trong nội dung này, nếu như không xảy ra “vấn đề Linebacker 2” thì có vẻ như Trung Quốc được lợi lớn là “Hoa Kỳ ủng hộ Trung Quốc giữ ghế thành viên cố định tại Hội đồng Bảo an liên hợp quốc, thay Đài Loan”.
Thực ra với nội dung này, Mỹ, Trung không cần phải thỏa thuận vì cả hai có cùng một mục đích giống nhau. Vậy thì cái lợi thu được của Mỹ trong nội dung này nằm ở đâu? Nó nằm ở đây: Trung Quốc “im lặng” cho Mỹ muốn làm gì ở miền Bắc Việt Nam thì làm, miễn sao miền Bắc Việt Nam dưới trận đòn của Mỹ sẽ kiệt quệ không còn khả năng thống nhất 2 miền, Trung Quốc dễ sai khiến, tạo lợi thế cân bằng cho miền Nam Việt Nam khi Mỹ rút.
Đúng như lời của Tổng bí thư Lê Duẩn khi nói thẳng vào mặt Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai: “Tôi không biết các anh bàn soạn gì với nhau, tôi chỉ biết chắc chắn rằng sắp tới nhân dân Việt Nam sẽ đổ máu nhiều hơn…” 
Và cái gì phải đến đã đến, chiến dịch Linbacker 2, tội ác cuối cùng, tàn bạo nhất, sau cuộc “ngoại giao bóng bàn” của Trung-Mỹ đã được tiến hành với 12 ngày đêm trên bầu trời Hà Nội.
Không phải ai cũng như Trung Quốc!
Hơn ai hết, Trung Quốc quá rõ sự phản bội, sự độc ác của mình trong việc hành xử với Việt Nam sau sự kiện “ngoại giao bóng bàn” nên họ lại “suy bụng ta ra bụng người” khi tức tối lu loa lên rằng “Giao lưu thể thao, bóng chuyền giữa Hải quân 2 nước Việt Nam và Philipines trên đảo Trường Sa là “trò hề, bịp bợm”…Giá như là “trò hề, bịp bợm” đi nữa thì vẫn tốt hơn ngàn lần “phản bội, độc ác vô lương tâm” thưa bà Hoa Xuân Oánh (Bộ NG Trung Quốc).
Biển Đông không phải là “ao nhà” của Trung Quốc!
Trong tình hình Biển Đông căng thẳng bởi sự hung hăng, ngang ngược của Trung Quốc ngày càng leo thang căng thẳng. Trung Quốc “lấy thịt đè người”, trắng trợn, bất chấp luật pháp quốc tế, cậy mạnh để chiếm đoạt Biển Đông thì việc Hải quân Việt Nam, Philipines đồn trú trên quần đảo Trường Sa giao lưu thể thao để chứng tỏ dù có tranh chấp thì Việt Nam, Philipines đều cùng nhau giải quyết bằng biện pháp hòa bình, không cậy mạnh để ăn cướp như Trung Quốc đã làm.
Đằng sau việc “giao lưu thí đấu bóng bàn” của Trung Quốc là sự mặc cả quyền lợi của mình với Mỹ trên lưng Việt Nam, nhuốm máu nhân dân Việt Nam, còn đằng sau giao lưu bóng chuyền Việt-Phi là thông điệp hòa bình, hữu nghị, là mô hình hợp tác giải quyết bất đồng bằng hòa bình tránh xung đột trên Biển Đông.
Trung Quốc đang lo sợ Nhật Bản-Việt Nam và Philipines liên thủ với nhau trên Biển Đông nên Hoàn Cầu thời báo hét to để bớt sợ “sức mạnh ba nước cũng không kiềm chế được Trung Quốc”.
Trung Quốc đang sợ khi Cam Ranh và Subic liên thủ thì sẽ như cái “xiên thịt”, xiên ngang vào lưỡi bò của Trung Quốc.
Trung Quốc đang lo sợ Cam Ranh Subic liên thủ sẽ như một “eo biển” mà qua được nó cũng không phải dễ dàng cho dòng hàng hóa khổng lồ của Trung Quốc trên Biển Đông.
Những điều này liệu có xảy ra không khi Trung Quốc đang cậy mạnh đe dọa sử dụng vũ lực với Việt Nam và Philipines? Khi đã và đang xâm hại đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam và Philipines ngày càng ngang ngược và bất chấp?
Giả sử có xảy ra thì cũng là điều tự nhiên, là nhu cầu của cuộc sống, nó tốt, đàng hoàng, minh bạch gấp vạn lần sự “phản bội, độc ác vô lương tâm” thưa bà Hoa Xuân Oánh.
Lê Ngọc Thống
Lên đầu trang
Vào giữa trang
Xuống cuối trang