Thứ Bảy, 20 tháng 8, 2011

Quan điểm xây dựng lực lượng Hải quân và Phòng không Không quân của Việt Nam

Hexun - Trong các thập niên tám mươi và năm chín mươi của thế kỷ trước, cùng với những thay đổi quan trọng trong tình hình quốc tế và chiến lược biên giới đất liền giữa Trung Quốc-Việt Nam cũng thay đổi một cách dễ dàng, trọng tâm chiến lược của cả kinh tế và quốc phòng của Việt Nam chuyển dần dần từ đất liền sang đại dương. Không chỉ cạnh tranh với các nước láng giềng, Việt Nam còn cạnh tranh với Trung Quốc ở quần đảo Trường sa, do đó họ thúc đẩy mạnh việc hiện đại hóa quân sự trong các lực lượng chiến lược là một phương tiện quan trọng để hỗ trợ cho các chiến lược trọng tâm, đặc biệt là trong việc xây dựng lực lượng hải quân và phòng không không quân được tiếp tục tăng cường.
Trước tiên, tình thế thay đổi chiến lược, Việt Nam liên tục điều chỉnh chiến lược quân sự của mình, nêu bật tầm quan trọng của hải quân và tình trạng xây dựng lực lượng không quân.


Sau khi thống nhất đất nước, đặc biệt là kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, dựa trên phán đoán cơ bản của tình hình quốc tế, trọng tâm chuyển dần sang một quốc gia phát triển và xây dựng kinh tế, chiến lược quân sự chuyển sang "phòng thủ chủ động", "thu nhỏ lực lượng đất liền chuyển sang biển", trong các chính sách chiến lược của họ, dần dần thu nhỏ các lực lượng trên bộ, củng cố việc chiếm giữ quần đảo Trường sa và mở rộng quyền kiểm soát trên biển; tinh giản lực lượng quân đội, tăng cường xây dựng lực lượng hải quân và phòng không không quân. Nêu bật tầm quan trọng của phát triển hàng hải, bảo vệ tài nguyên khu kinh tế độc quyền, vv, đánh dấu sự tiến bộ của Việt Nam, thu hút sự chú ý trên toàn thế giới.

Từ quan điểm địa chính trị xem xét, Việt Nam nằm ở phía Đông của Đông Nam Á, phía Đông của Đông Dương, biển ôm sát đất liền, Bắc-Nam có bờ biển dài 3.260 km và nơi hẹp nhất của đất liền chỉ có vài chục Km, do đó, xét theo địa lý trong yếu tố quốc phòng cũng có thế bất lợi. Do đó Việt Nam nhấn mạnh phát triển vào lực lượng hải quân và phòng không không quân, và tăng cường kiểm soát các quần đảo Trường Sa để dành ưu thế cho chiến trường, đáp ứng hiệu quả việc mở rộng quốc phòng theo chiều sâu, thuận lợi cho việc cảnh báo sớm. "Dựa vào địa thế hiểm yếu lấy đất liền phòng thủ cho biển." Việt Nam với biển phía đông nam các cảng có một vị trí địa lý độc đáo, một vị trí chiến lược quan trọng, với một số tuyến đường quốc tế, Việt Nam có cơ sở để kiểm soát biển Đông và eo biển Malacca.

Từ một quan điểm về kinh tế, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, GDP bình quân đầu người xếp hành thấp ở các nước Đông Nam Á, ở Việt Nam tài nguyên khí đốt đã trở thành một nguồn quan trọng của GDP. Theo thống kê, Việt Nam khai thác ở vùng biển phía Nam Trung Quốc mỗi năm khoảng 2.000 tấn dầu, chiếm gần 30% GDP của Việt Nam, và tỷ lệ phần trăm trong năm 2020 dự kiến ​​đạt 53% hoặc thậm chí cao hơn. Dầu ở Biển Đông Việt Nam đã trở thành một sự hỗ trợ quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam và không còn nắm giữ được dầu ở biển Đông, kinh tế Việt Nam sẽ lâm vào nguy hiểm.

Từ quan điểm chính trị quốc tế, một lực lượng hải quân mạnh và lực lượng phòng không không quân quyền lực cho phép Việt Nam trở thành bá chủ khu vực, để tăng cường ảnh hưởng quốc tế và có tiếng nói trong các thương lượng quan trọng. Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước, họ đã khẳng định quyền bá chủ ở khu vực Đông Dương. Sau đó, dẹp yên Popol ở Campuchia và là đối thủ cạnh tranh hiện tại trong các đảo ở biển Đông, kiểm soát vùng biển Đông là một giấc mơ lớn của Việt Nam, và để đạt được điều đó, phải đẩy nhanh tốc độ xây dựng cho mình lực lượng hải quân và phòng không không quân mạnh ở khu vực .

Thứ hai, Việt Nam chú ý đến các trang thiết bị vũ khí công nghệ cao, nâng cao hiệu quả chiến đấu của hải quân và lực lượng không quân.

Để đáp ứng với tình hình mới, hệ thống cơ sở quân sự của Việt Nam đã được điều chỉnh, giảm đáng kể lực lượng quân đội, ... Xây dựng hải quân và không quân là trọng tâm chính của mục tiêu hiện đại hóa. Lực lượng Việt Nam vũ trang đã phát triển một " chương trình phát triển vũ khí Hải quân 2000" và "kế hoạch phát triển hải quân thế kỷ 21", một sự gia tăng đáng kể trong việc đầu tư tài chính cho lực lượng hải quân, trong khi họ tăng cường sự phát triển và tìm mua các loại trang thiết bị và vũ khí mới, cũng như xây dựng và mở rộng một cơ sở hải quân lớn ở trung tâm - phía nam . Việt Nam có kế hoạch xây dựng dài hạn lực lượng hải quân với yêu cầu rõ ràng, đến năm 2010, loại bỏ dần các thiết bị cũ, tăng số lượng tàu mới, tàu ngầm và lực lượng không quân được coi trọng phát triển; đến năm 2020, sẽ để hoàn thành sức mạnh cơ bản ban đầu của các hệ thống phòng thủ Biển Đông Việt Nam; trước năm 2050 lực lượng hải quân có khả năng tác chiến độc lập trên biển.

Từ cuối năm 2009, các lãnh đạo cấp cao của quân đội và chính trị Việt Nam thực hiện nhiều chuyến thăm cấp cao và thường xuyên đến Nga và Israel để mua một số lượng lớn các trang thiết bị vũ khí như tàu ngầm, máy bay chiến đấu và tên lửa và các vũ khí tiên tiến khác, tập trung xây dựng hệ thống cảnh báo sớm phòng không. Vào tháng Tư năm 2009, Việt Nam đã thông báo rằng Nga sẽ đóng mới cho Việt Nam 6 tàu ngầm Lớp Kilo, tổng giá trị khoảng 1,8 tỷ USD, chiếc đầu tiên giao trong năm 2012, điều này góp phần cho sự phát triển của Hải quân Việt Nam được nâng lên và có một sự thay đổi về chất, khả năng chiến đấu sẽ được cải thiện đáng kể. Việt Nam mua của Nga hai tàu khu trục nhỏ Gepard 3.9, với tổng trị giá 350 triệu USD, và Việt Nam cũng có kế hoạch tự đóng trong nước loại này. Gepard 3.9 là loại tàu nổi mạnh nhất của hải quân Việt Nam hiện nay.

Thứ ba, Việt Nam thực hiện một loạt các hoạt động ngoại giao quân sự, với Hoa Kỳ và Nga họ tiếp tục thúc đẩy trao đổi quân sự và các lĩnh vực khác

Trong những năm gần đây, ngoại giao quân sự của Việt Nam đã cho thấy một sự "đa dạng, toàn diện" các tính năng, với sự nhấn mạnh vào các nước lớn và các nước lân cận trong trao đổi quân sự.

08 tháng 8 năm 2010, tàu sân bay "Washington" của Mỹ đầu tiên đến Việt Nam ở khu vực Đà Nẵng, và với Hải quân Việt Nam họ thực hiện một loạt các hoạt động trao đổi tiến hành tìm kiếm hàng hải chung và các bài tập cứu hộ. Chính quyền Obama, đẩy trọng tâm chiến lược sang châu Á, mong muốn và tìm cách thiết lập căn cứ quân sự ở Đông Nam Á, Vịnh Cam Ranh đã nằm trong các cuộc đàm phán cho thuê của Việt Nam - Hoa Kỳ.

Mối quan hệ với Nga đang củng cố sâu sắc hơn các hợp tác và mở rộng hợp tác quân sự. Theo trang web Jamestown Foundation của Hoa Kỳ cho biết, Việt Nam trong năm 2009 trở thành nước mua lớn nhất trang thiết bị vũ khí của Nga... 27 tháng 11 năm 2005, các tàu tuần dương tên lửa của Nga tàu "Kuznetsov" đã đến thăm Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh, đánh dấu một giai đoạn mới của các trao đổi quân sự hai nước. Trong khi đó, Nga cũng bày tỏ mạnh mẽ mong muốn trở lại vịnh Cam Ranh.

Bây giờ, Hoa Kỳ và Nga đã đáp ứng được lợi ích riêng của chiến lược của họ ở Việt Nam, và chú ý đến vịnh Cam Ranh của khu vực Đông Nam Á như một kho báu hiếm. Chính sách đối ngoại của Việt Nam đã linh hoạt hơn, thực dụng, không còn "một chiều"...

Chính phủ Việt Nam hy vọng với sự lớn mạnh của không quân và hải quân, trong vấn đề biển Đông Việt Nam,Việt Nam mong muốn đóng một vai trò hàng đầu. Tăng cường sức mạnh không quân và hải quân, sử dụng các lợi thế địa lý để kiểm soát biển Đông Việt Nam. Việt Nam tích cực hợp tác với các nước láng giềng cạnh tranh với Trung Quốc và muốn làm suy yếu sức mạnh của Trung Quốc, buộc Trung Quốc phải nhượng bộ. Đồng thời, Chính phủ Việt Nam cũng chỉ ra rằng sự can thiệp quân sự của Nga để ràng buộc với các vấn đề khu vực, Việt Nam hy vọng sẽ đạt được sự hợp tác lợi ích với Nga, và hạn chế đượcTrung Quốc.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Xin mời bạn cho một nhận xét để động viên người viết.
(Nhận xét của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng)

Lên đầu trang
Vào giữa trang
Xuống cuối trang