Nói một cách đơn giản, Trung Quốc có ba lợi ích chiến lược cốt lõi.
Trong số những lợi ích này, có việc duy trì an ninh nội địa. Về mặt lịch sử, khi Trung Quốc tham gia vào thưong mại toàn cầu, như trong thế kỷ 19 vả đầu thế kỷ 20, vùng duyên hải thì phồn thịnh, trong khi vùng nắm sâu trong lãnh thổ, cách bờ biển khoảng 100 dặm và trải dài suốt 1000 dặm về phía tây, thì nghèo nàn. Hiện nay, khoảng 80% người dân Trung Quốc có thu nhập thấp hơn mức thu nhập trung bình tại Bolivia. Đa số người nghèo Trung Quốc sống ở phía tây vùng duyên hải phồn thịnh ; sự chệnh lệch giàu nghèo đã nhiều lần làm dấy lên những căng thẳng về lợi ích giữa vùng duyên hải và vùng bên trong lãnh thổ. Sau sự trỗi dậy không thành vào năm 1927 tại Thượng Hải, Mao Trạch Đông đã khai thác những căng thẳng này trong cuộc Vạn lý Trường chinh tiến vào bên trong lãnh thổ, lập lên một quân đội nông dân và cuối cùng chiếm được vùng duyên hải. Ông ta đã đóng cửa Trung Quốc đối với hệ thống thương mại quốc tế, để lại một đất nước Trung Hoa thống nhất và công bằng hơn, nhưng cực kỳ nghèo khổ.
Chính phủ hiện nay tìm kiếm các phương tiện tạo ra của cải để duy trì sự ổn định: mua sự trung thành của người dân bằng cách sử dụng nhân lực ồ ạt. Các kế hoạch phát triển công nghiệp được triển khai mang ít tư duy thị trường hoặc kiếm lợi, mà có mục đích tạo tối đa công ăn việc làm. Các khoản tiết kiệm tư nhân được sử dụng để tài trợ cho các nỗ lực công nghiệp, chỉ có một ít vốn trong nước được dùng để mua sản phẩm. Bởi vì Trung Quốc cần phải xuất khẩu.
Mối quan tâm chiến lược thứ hai xuất phát từ mối quan tâm thứ nhất. Nền tảng thiết kế công nghiệp của Trung Quốc là sản xuất nhiều hơn mức tiêu thụ của nền kinh tế nội địa, do vậy, Trung Quốc phải xuất khẩu hàng hóa ra thế giới và nhập khẩu nguyên liệu. Vì thế, Trung Quốc phải làm bất kỳ việc gì để đáp ứng nhu cầu của thế giới đối với các xuất khẩu của họ. Điều này bao gồm một loạt các hoạt động, từ đầu tư tiền tệ vào các nền kinh tế của những nước tiêu thụ cho đến việc tạo các lối thông thương không hạn chế với các tuyến hàng hải thế giới.
Lợi ích chiến lược thứ ba là duy trì sự kiểm soát đối với các vùng đệm. Người Hán, sắc tộc chính và lâu đời của Trung Quốc sống tập trung trên hai phần ba lãnh thổ ở phía đông Trung Quốc, nơi có lượng nước mưa dồi dào, khác hẳn với một phần ba lãnh thổ khô cằn còn lại ở miền trung và phía tây. Do đó, điều tất yếu là an ninh của Trung Quốc phụ thuộc vào việc kiểm soát được bốn vùng đệm bao quanh, không thuộc cư dân Hán Trung Quốc : Mãn Châu, Nội Mông, Tân Cương và Tây Tạng. Bảo đảm an ninh tại các vùng này có nghĩa là Trung Quốc có thể cách biệt được với Nga ở phía bắc, ngăn ngừa được bất kỳ cuộc tấn công nào đến các thảo nguyên phía tây và bất kỳ cuộc tấn công nào đến từ Ấn Độ hoặc Đông Nam Á.
Về mặt địa lý, việc kiểm soát được các vùng đệm tạo ra cho Trung Quốc những hàng rào che chắn tự nhiên – rừng rậm, núi, thảo nguyên và vùng hoang mạc Siberi – rất khó vượt qua và tạo thế phòng thủ vững chắc đẩy mọi kẻ xâm lược vào thế rất bất lợi.
Những lợi ích bị thách thứcGiờ đây, Trung Quốc phải đốí mặt với những thách thức đe dọa tất cả ba lợi ích chiến lược này.
Sự suy giảm kinh tế tại châu Âu và Hoa Kỳ - hai khách hàng chính của Trung Quốc – đã đẩy xuất khẩu của Trung Quốc vào tình huống cạnh tranh ngày càng mạnh và nhu cầu giảm. Trong khi đó, Trung Quốc không thể nâng cao nhu cầu tiêu dùng nội địa một cách phù hợp và không bảo đảm được việc tiếp cận các tuyến hàng hải quốc tế độc lập mà Hải quân Hoa Kỳ bảo vệ.
Cũng chính những thúc bách kinh tế này lại trở thành thách thức ngay tại Trung Quốc. Vùng duyên hải thịnh vượng phụ thuộc vào thương mại hiện đang bị suy giảm và vùng nghèo nàn nằm sâu trong lục địa lại cần phải trợ cấp, điều này khó thực hiện khi mà tăng trưởng kinh tế đang rất chậm chạp.
Ngoài ra, hai vùng đệm của Trung Quốc đang trong quá trình biến động. Các phần tử ở ngay Tây Tạng và Tân Cương chống đối quyết liệt sự chiếm đóng của người Hán. Bắc Kinh hiểu được rằng việc mất các vùng này có thể gây ra những mối đe doạ đối với an ninh Trung Quốc – đặc biệt là các mất mát này có thể tạo nên sự thèm muốn ở phía bắc Ấn Độ thuộc dãy núi Himalaya hoặc tạo ra một chế độ Hồi giáo cực đoan tại Tân Cương.
Tình hình tại Tây Tạng có nguy cơ rối loạn nhất. Một cuộc chiến tranh triệt để giữa Ấn Độ và Trung Quốc – lớn hơn những va chạm nhỏ - không thể kéo dài vì hai nước bị ngăn cách bởi dãy núi Himalayas. Không một bên nào có thể hỗ trợ hậu cần cho cuộc chiến tranh trên quy mô lớn với nhiều binh đoàn tham chiến ở nơi này. Thế nhưng, Trung Quốc và Ấn Độ có thể đe dọa nhau, nếu một trong hai bên vượt qua được Himalayas và thiết lập sự hiện diện quân sự ở phía bên kia dãy núi. Đối với Ấn Độ, mối đe doạ có thể nổi lên nếu như một số lượng lớn binh sĩ Trung Quốc vào Pakistan. Đối với Trung Quốc, mối đe doạ có thể xuất hiện nếu một số lượng lớn binh sĩ Ấn Độ vào được Tây Tạng.
Chính vì thế, Trung Quốc thường xuyên làm như họ sẽ đưa một số lượng lớn binh sĩ vào Pakistan, nhưng xét cho cùng, Pakistan không thu được lợi ích gì trên thực tế trong việc để cho quân đội Trung Quốc chiếm đóng – cho dù sự chiếm đóng này là nhằm chống lại Ấn Độ. Bản thân Trung Quốc cũng không quan tâm đến việc tiến hành các chiến dịch bảo đảm an ninh tại Pakistan. Phía Ấn Độ cũng ít quan tâm đến việc đưa quân vào Tây Tạng trong trường hợp có một cuộc cách mạng ở đó. Đối với New Delhi, một Tây Tạng độc lập không có quân đội Trung Quốc có lẽ tốt hơn là việc Ấn Độ phải đưa một số lượng binh sĩ đông đảo vào đây. Tây Tạng càng trở thành vấn đề đối với Trung Quốc, thì Ấn Độ lại càng dễ quản lý hồ sơ này. Những người nổi dậy Tây Tạng dường như nhận được sự khuyến khích và hỗ trợ tối thiểu từ Ấn Độ, không vượt qua mức có thể đe doạ sự kiểm soát của Trung Quốc.
Chừng nào các vấn đề nội bộ ở những nơi sinh sống của ngưòi Hán còn quản lý được, thì Trung Quốc vẫn duy trì được sự thống trị tại các các vùng đệm, cho dù phải có một số nỗ lực cũng như tổn hại về uy tín ở nước ngoài.
Vấn đề mấu chốt đối với Trung Quốc là duy trì ổn định trong nước. Nếu bộ phận người Hán Trung Quốc không ổn định thì không thể kiểm soát được các vùng đệm. Việc duy trì ổn định vùng nằm sâu trong lãnh thổ đòi hỏi phải có sự chuyển giao nguồn của cải và điều này buộc nền kinh tế vùng duyên hải phải có tăng trưỏng cao liên tục nhằm tạo ra nguồn vốn chu cấp cho vùng nội địa. Nếu luồng xuất khẩu hàng hóa và nhập khẩu nguyên liệu bị ngưng lại thì thu nhập của vùng sâu trong lãnh thổ sẽ nhanh chóng bị giảm xuống tới mức có thể dẫn đến những bùng nổ về chính trị. (Hiện nay, một cuộc cách mạng còn lâu mới xẩy ra tại Trung Quốc, nhưng các căng thẳng xã hội ngày càng tăng và Trung Quốc phải sử dụng bộ máy an ninh và Quân đội Giải phóng Nhân dân để kiểm soát các căng thẳng này.)
Việc duy trì các luồng xuất – nhập khẩu đó là một thách thức to lớn. Chính mô hình chỉ chú trọng đến tạo công ăn việc làm và chia sẻ thị trường hơn là tìm kiếm lợi nhuận dẫn đến việc phân bổ sai lệch các nguồn và cắt đứt mối liên hệ tự điều hòa thông thường giữa cung và cầu. Một trong những hậu quả rối loạn nhất là lạm phát, làm tăng chi phí trợ cấp cho vùng sâu trong lãnh thổ, vào lúc khả năng cạnh tranh của Trung Quốc với các nước xuất khẩu khác trên thế giới – cũng có giá nhân công thấp - đang bị xói mòn.
Đối với Bắc Kinh, đây là một thách thức chiến lược và chỉ có thể ngăn chặn được thánh thức này qua việc nâng cao mức lợi nhuận trong hoạt động kinh tế của Trung Quốc. Các nhà sản xuất những sản phẩm có giá trị gia tăng thấp không thể làm được việc này. Giải pháp là phải bắt đầu chế tạo những sản phẩm có giá trị gia tăng cao (ít giầy dép, nhiều xe hơi hơn), thế nhưng, công việc này đòi hỏi một loại nhân lực khác, đó là những nhân công được giáo dục và đào tạo trong nhiều năm, có trình độ cao hơn mức trung bình của người dân vùng duyên hải Trung Quốc, trong khi người dân ở vùng sâu lãnh thổ lại có trình độ thấp hơn rất nhiều. Công việc này cũng đòi hỏi phải cạnh tranh trực tiếp với các nền kinh tế đã được thiết lập vững chắc từ lâu như Nhật Bản, Đức và Hoa Kỳ. Đây là trận chiến mang tính chiến lược mà Trung Quốc phải tiến hành nếu muốn duy trì sự ổn định đất nước.
Yếu tố quân sựNgoài những vấn đề về mô hình kinh tế, Trung Quốc còn phải đối mặt với một vấn đề quân sự cốt yếu. Sự sống còn của Trung Quốc phụ thuộc vào các vùng biển. Địa hình của biển Hoa Nam (tức Biển Đông) và biển Hoa Đông làm cho Trung Quốc dễ bị phong tỏa. Biển Hoa Đông bị vây quanh bởi bán đảo Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan với một chuỗi đảo nằm giữa Nhật Bản và Đài Loan. Biển Đông thậm chí còn bị khép kín hơn bởi Đài Loan, Philippines, Indonesia và Singapore. Mối lo ngại chiến lược lớn nhất của Bắc Kinh là Hoa Kỳ có thể phong tỏa Trung Quốc, không phải với việc đưa Hạm đội 7 vào bên trong hai chuỗi đảo, mà là ở bên ngoài hai hàng rào này. Ở vị trí đó, Hoa Kỳ buộc Trung Quốc phải điều tàu chiến đi ra xa lãnh thổ để mở đường – và đương đầu với tàu chiến Mỹ - và cho đến nay, Mỹ vẫn có thể ngăn chặn các lối thoát ra bên ngoài của Trung Quốc.
Việc Trung Quốc không có hải quân đủ khả năng thách thức Hoa Kỳ làm phức tạp thêm vấn đề. Thực vậy, Trung Quốc vẫn còn trong quá trình hoàn thiện hàng không mẫu hạm đầu tiên và hải quân của nước này không đủ tầm cỡ và chất lượng thách thức Mỹ. Thế nhưng, thiết bị hải quân không phải là thách thức lớn nhất đối với Trung Quốc. Hoa Kỳ đã đặt đóng chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên vào năm 1922 và từ đó đến nay, đã tinh nhuệ hóa binh chủng không quân hải quân và lực lượng hải – không quân chiến thuật. Việc đào tạo đô đốc và các sĩ quan có khả năng chỉ huy lực lượng hải-không quân đã trải qua mấy thế hệ. Trong khi đó, Trung Quốc chưa bao giờ có lực lượng hải – không quân và họ cũng không hề có đô đốc chỉ huy lực lượng này.
Trung Quốc hiểu được vấn đề và đă lựa chọn một chiến lược khác để răn đe hải quân Hoa Kỳ phong tỏa : Đó là dùng tên lừa chống tàu chiến có khả năng tấn công thậm chí chọc thủng các hệ thống phòng thủ của hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ, kết hợp với sự hiện diện của tàu ngầm. Hoa Kỳ không muốn đối đầu với Trung Quốc chút nào, nhưng nếu họ thay đổi ý định thì Trung Quốc có thể gặp rất nhiều khó khăn để đáp trả.
Vào lúc Trung Quốc có một hệ thống tên lửa trên mặt đất hùng hậu, bản thân hệ thống này lại rất dễ bị tổn thương bởi các vụ tấn công bằng tên lửa đạn đạo, không quân và máy bay không người lái hiện đang được phát triển và các phương tiện tấn công khác. Khả năng tiến hành một trận chiến kéo dài của Trung Quốc bị hạn chế. Ngoài ra, chiến lược dùng tên lửa chỉ có tác dụng khi có khả năng trinh thám hiệu quả. Không thể phá hủy một tàu chiến nếu không biết nó ở đâu. Việc này đỏi hỏi phải có các hệ thống trinh thám đặt trên không trung có thể nhận diện các tàu chiến của Mỹ và một hệ thống kiểm soát bắn tích hợp cao. Điều này làm nẩy sinh câu hỏi là liệu Mỹ có khả năng chống lại sự quan sát của vệ tinh hay không ? Chúng tôi có thể bảo đảm là có và nếu Mỹ sử dụng thì nó sẽ làm cho hệ thống trinh thám của Trung Quốc mù lòa.
Do vậy, Trung Quốc bổ xung chiến lược chống bao vây bằng cách có những cảng thông ra biển tại các nước trong vùng Ấn Độ Dương và ở bên ngoài vùng Biển Đông. Bắc Kinh có kế hoạch xây các cảng ở Pakistan và Miến Điện, quốc gia đang được ve vãn, với triển vọng quốc tế chấm dứt sự cô lập. Bắc Kinh đã sẵn sàng tài trợ và phát triển cảng thông ra biển ở Gwadar tại Pakistan, Colombo và Hambantota tại Sri Lanka và Trung Quốc rất hy vọng xây được cảng nước sâu ở Sittwe, Miến Điện. Để thực hiện chiến lược này, Bắc Kinh cần có những hạ tầng giao thông nối liền Trung Quốc với các cảng. Điều đó có nghĩa là phải phát triển các hệ thống đưòng sắt và đường bộ. Thế nhưng, không nên đánh giá thấp những khó khăn trong việc xây dựng các hệ thống này tại Miến Điện, chẳng hạn.
Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là Bắc Kinh phải duy trì mối quan hệ chính trị cho phép Trung Quốc tiếp cận được với các cảng. Ví dụ, Pakistan và Miến Điện không ổn định và Bắc Kinh không thể chắc chắn là các chính phủ hợp tác với Trung Quốc sẽ luôn luôn đứng vững tại các nước này. Trong trường hợp của Miến Điện, những mở cửa chính trị gần đây có thể dẫn đến việc chính quyền Naypyidaw thoát ra ngoài vòng ảnh hưởng của Trung Quốc. Xây cảng và đường sá, rồi một cuộc đảo chính hoặc bầu cử lập ra một chính phủ bài Trung Quốc là khả năng có thể xẩy ra. Bởi vì đây là một trong những lợi ích chiến lược cơ bản, Bắc Kinh không thể đơn giản cho rằng việc xây một cảng sẽ giúp họ có thể tự do tiếp cận với cảng này. Thêm vào đó, các tuyến đường bộ và đường sắt rất dễ bị phá hoại bởi lực lượng du kích hoặc bị phá hủy bởi các vụ không kích hoặc tấn công của tên lửa.
Để cho các cảng ở Ấn Độ Dương trở nên hữu dụng, Bắc Kinh cần phải tin rằng họ có khả năng kiểm soát được tình hình chính trị tại nước có cảng trong một thời gian dài. Kiểu kiểm soát từ xa này chỉ có thể được bảo đảm bằng một sức mạnh to lớn đủ để mở lối tiếp cận ra các cảng và hệ thống giao thông. Có một điều quan trọng nên ghi nhớ là từ khi những người Cộng sản lên cầm quyền, Trung Quốc hiếm khi mở các chiến dịch quân sự - và nếu có làm thì thu được những kết quả không như ý muốn. Cuộc xâm lấn Tây Tạng đã thành công vì chỉ vấp phải một sự kháng cự thực sự ở mức tối thiểu. Việc can thiệp vào Triều Tiên đã phá vỡ thế bí, nhưng Trung Quốc đã phải trả một cái giá khủng khiếp, hứng chịu nhiều mất mát và trở nên rất thận trọng trong tương lai. Năm 1979, Trung Quốc tấn công Việt Nam, và hứng chịu một thất bại đáng kể. Trung Quốc cố gắng đưa ra hình ảnh của mình như là một lực lượng quân sự có năng lực, nhưng trên thực tế, quân đội Trung Quốc có ít kinh nghiệm chiến đấu ở bên ngoài và những kinh nghiệm ít ỏi mà họ có được thì cũng không thích thú gì.
An ninh quốc nội đối chọi với khả năng chiến đấu ở bên ngoàiNguyên nhân của sự thiếu kinh nghiệm này xuất phát từ vấn đề an ninh nội địa. Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc –(PLA) chủ yếu được xây dựng như một lực lượng an ninh nội địa – một sự cần thiết do những căng thẳng nội bộ trong lịch sử Trung Quốc. Vấn đề đặt ra không phải là liệu Trung Quốc hiện nay có kinh nghiệm về những căng thẳng này hay không. Vấn đề là khả năng. Việc lập kế hoạch chiến lược thận trọng đòi hỏi phải xây dựng các lực lượng để đối phó với những tình huống xấu nhất. Được xác định là phải bảo đảm an ninh nội địa, về mặt học thuyết cũng như hậu cần, PLA không thiên về tác chiến tấn công. Sử dụng một lực lượng được đào tạo để bảo đảm an ninh như một lực lượng tác chiến tấn công thì dẫn đến thất bại hoặc rơi vào tình trạng rất khó khăn không lối thoát. Do quy mô của những vấn đề nội bộ tiềm ẩn tại Trung Quốc và thách thức chiếm lĩnh một đất nước như Miến Điện hoặc càng khó hơn như là Pakistan, việc xây dựng một lực lượng bổ sung có đủ khả năng có thể không vượt quá nguồn nhân lực sẵn có của Trung Quốc, nhưng nó vượt quá khả năng chỉ huy và hậu cần của Trung Quốc. PLA được lập ra để kiểm soát Trung Quốc, không phải để chiến đấu ở bên ngoài, và các chiến lược được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu chiến đấu ở bên ngoài trong tương lai cũng có nhiều rủi ro.
Cần phải ghi nhận là từ những năm 1980, Trung Quốc đã có ý định chuyển giao trách nhiệm an ninh nội địa cho lực lượng Cảnh sát Vũ Trang Nhân dân, biên phòng và các lực lượng an ninh nội địa khác; những lực lượng này đã được phát triển và đào tạo để đối phó với tình trạng bất ổn xã hội. Thế nhưng, cho dù có cơ cấu lại, Trung Quốc vẫn còn có nhiều hạn chế to lớn trong việc huy động sức mạnh quân sự ra bên ngoài, trên quy mô lớn, để có thể thách thức trực tiếp Hoa Kỳ.
Có một khoảng cách giữa việc coi Trung Quốc như một cường quốc khu vực và thực tế. Bắc Kinh có thể kiểm soát được trong nước, nhưng khả năng của Trung Quốc kiểm soát các nước láng giềng bằng sức mạnh quân sự thì lại hạn chế. Hơn nữa, mối lo sợ Trung Quốc xâm lăng Đài Loan không có cơ sở. Trung Quốc không thể thực hiện được một cuộc tấn công đổ bộ xa như vậy, đó là chưa kể đến việc phải hỗ trợ hậu cần cho trận chiến ở xa. Trung Quốc có một lựa chọn là thay thế bằng một cuộc chiến tranh du kích tại chỗ, giống như Philippines hoặc Indonesia. Vấn đề là với một cuộc chiến tranh như vậy thì Trung Quốc cần mở các tuyến đường biển, thế nhưng, điều mà các du kích quân có thể làm được – cho dù họ được trang bị tên lửa chống tàu chiến và mìn - là đóng các tuyến đường biển, chứ không thể giúp khai thông.
Giải pháp chính trịDo vậy, Trung Quốc phải đối mặt với một vấn đề chiến lược quan trọng. Trung Quốc phải xây dựng chiến lược an ninh quốc gia trên cơ sở những gì mà Hoa Kỳ có thể làm, chứ không phải trên cơ sở những gì mà Bắc Kinh cảm thấy muốn làm vào lúc này. Trung Quốc không thể ngăn chặn được Hoa Kỳ trên biển và chiến lược xây dựng các cảng ở Ấn Độ Dương vấp phải thực tế là chi phí rất lớn và các điều kiện chính trị cho phép tiếp cận các cảng này không chắc chắn. Các nhu cầu thành lập một lực lượng đủ khả năng bảo đảm việc tiếp cận các cảng đi ngược lại những đòi hỏi về an ninh bên trong Trung Quốc.
Chừng nào mà Hoa Kỳ vẫn là cường quốc hải quân thống trị thế giới, thì chiến lược của Trung Quốc vẫn phải là có được sự trung lập hóa về mặt chính trị của Mỹ. Nhưng Bắc Kinh cũng cần phải chắc chắn là Washington không cảm thấy bị sức ép và do vậy lựa chọn giải pháp phong tỏa. Vì vậy, Trung Quốc cần phải hiện diện như là một bộ phận cơ bản trong đời sống kinh tế của Mỹ. Thế nhưng, Hoa Kỳ không nhất thiết nhìn nhận hoạt động kinh tế của Trung Quốc như là một mối lợi và cũng không rõ là liệu Trung Quốc có thể mãi mãi duy trì vị thế duy nhất như vậy với Hoa Kỳ. Mặt khác, cũng có những giải pháp đỡ tốn kém hơn. Những hô hào hùng biện của chính quyền và lập trường của phe cứng rắn – nhằm tạo ra sự ủng hộ của những phần tử dân tộc chủ nghĩa ở trong nước – có thể có hiệu quả về chính trị, nhưng lại làm cho quan hệ với Hoa Kỳ căng thẳng. Nó không làm cho quan hệ căng thẳng đến mức có nguy cơ xung đột quân sự nhưng do sự yếu kém của Trung Quốc, mọi sự căng thẳng đều nguy hiểm. Trung Quốc cho rằng họ biết cách đi cân bằng giữa một bên là những tuyên bố hùng biện và một bên là mối nguy hiểm thực sự trong quan hệ với Hoa Kỳ. Đây vẫn là một sự cân bằng tế tế nhị.
Hiện có người cho rằng Trung Quốc là một cường quốc khu vực, thậm chí thế giới, đang trỗi dậy. Trung Quốc có thể đang trỗi dậy, nhưng còn lâu mới giải quyết được những vấn đề chiến lược cơ bản của mình và hơn nữa là thách thức được Hoa Kỳ. Các căng thẳng trong chiến lược của Trung Quốc chắc chắn làm suy yếu nước này, nếu không muốn nói là chí tử. Tất cả những lựa chọn đều có những điểm yếu kém. Chiến lược thực sự của Trung Quốc là phải tránh những lựa chọn chiến lược rủi ro. Trung Quốc có may mắn là trong 30 năm qua đã tránh được việc đưa ra những quyết định như vậy, nhưng Bắc Kinh lại không hẳn có những công cụ cần thiết để kiến tạo lại môi truờng này. Nếu tính tới quy mô các thách thức đối với ảnh hưởng của Trung Quốc hiện nay – người ta nghĩ ngay đến các tranh chấp về năng lượng ở Sudan và quá trình thử nghiệm chính trị tại Miến Điện – có thể nói, về cơ bản, chính sách của Trung Quốc chỉ là một sự hy vọng mù quáng.
Bản dịch RFI
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Xin mời bạn cho một nhận xét để động viên người viết.
(Nhận xét của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng)