Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

Quan hệ Ấn Độ-Việt Nam trong bối cảnh tranh chấp Biển Đông


Mới đây, Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ đã thực hiện chuyến đi thăm chính thức Việt Nam sau khi xảy ra vụ chạm trán giữa hải quân Trung Quốc và một tàu chiến Ấn Độ vừa đi thăm Việt Nam trở về. Việt Nam và Ấn Độ gần đây đã tăng cường các quan hệ hợp tác kinh tế và chiến lược, đồng thời phát triển sâu rộng hơn các quan hệ song phương nhiều mặt, kể cả trong các lĩnh vực thương mại, văn hóa, khoa học và công nghệ.

Ông Dhruva Jaishankar thuộc tổ chức German Marshall Fund của Hoa Kỳ là một chuyên gia về chính sách ngoại giao Ấn Độ và cũng là một nhà nghiên cứu các vấn đề Đông Á và Đông Nam Á. Ông đã dành cho Ban Việt Ngữ đài VOA một cuộc phỏng vấn, phân tích các quan hệ Việt-Ấn và những sự cạnh tranh giữa New Dehli và Bắc Kinh, hai thế lực Châu Á có đà tăng trưởng kinh tế ngoạn mục nhất trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu. Mời quý vị theo dõi chi tiết trong chuyên mục Câu Chuyện Việt Nam do Hoài Hương phụ trách sau đây. 

Vụ Trung Quốc thách thức một tàu hải quân của Ấn Độ ngoài Biển Đông mới đây khi chiếc tàu Airavat đang trên đường về nước sau khi ghé thăm Việt Nam, đã gây sự chú ý của thế giới, nhưng từ lâu Ấn Độ và Trung Quốc đã không ngừng cạnh tranh với nhau để nới rộng phạm vi ảnh hưởng và tranh giành các nguồn tài nguyên, đến mức một nhà báo viết cho tạp chí Time đã bày tỏ lo ngại về nguy cơ chiến tranh có thể phát sinh từ những sự kèn cựa giữa hai thế lực kinh tế Châu Á mới nổi này. 

Từ năm 1991, Ấn Độ đã chuyển mình, đẩy mạnh phát triển để giờ đây trở thành một trong các quốc gia có đà tăng trưởng kinh tế nhanh hàng đầu thế giới. Giống như Trung Quốc, vai trò của New Dehli trên sân khấu thế giới và phạm vi ảnh hưởng cũng được nới rộng theo đà phát triển kinh tế của nước này.”

Nhà nghiên cứu Dhruva Jaishankar thuộc tổ chức German Marshall Fund của Mỹ nhận định: “Trong những năm đầu của thập niên 1990, Ấn Độ đã đề xuất một chính sách gọi là 'Nhìn về hướng Đông' (Look East Policy) tập trung vào Đông Nam Á và vùng Đông Á. Trong mấy năm qua, chính sách này đã nở rộ để giờ đây chiếm một vai trò quan trọng trong các hoạt động thương mại và các quan hệ giữa Ấn Độ với các nước trong khu vực.”

Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ S.M. Krishna mới đây đã đến Hà nội đồng chủ tọa buổi họp của Ủy ban hỗn hợp về hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Ấn. Dịp này, Ngoại trưởng Krishna loan báo thỏa thuận giữa Việt Nam với tập đoàn ONGC của Ấn Độ nhằm khai thác dầu khí trong vùng Biển Đông, gây phản ứng giận dữ từ Trung Quốc, mặc dù Bắc Kinh không nêu đích danh nước nào khi phát ngôn viên Hồng Lỗi đưa ra cảnh cáo sau đây.

Ông Hồng Lỗi nói: “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi trên Nam Sa (Trường Sa) và những vùng biển phụ cận. Chúng tôi có đầy đủ chứng cớ pháp lý và lịch sử. Bất cứ công ty nước ngoài nào thăm dò dầu khí trong vùng này mà không có sự chấp thuận của chính phủ Trung Quốc được coi như đã xâm phạm chủ quyền và quyền lợi quốc gia Trung Quốc, và như thế là bất hợp pháp và vô giá trị.”

Đáp lại, chính phủ Ấn Độ khẳng định các hoạt động dò tìm dầu khí với Việt Nam trong Biển Đông là hoạt động hợp pháp, và tuyên bố sẽ không chùn bước trước áp lực từ Bắc Kinh. 

Về vấn đề này, nhà nghiên cứu Jaishankar nói: "Tuyên bố của Trung Quốc rằng Biển Nam Trung Hoa là vùng lãnh hải thuộc chủ quyền của họ đã bị thách thức, không những bởi Ấn Độ mà nhiều nước khác, kể cả Việt Nam, Hoa Kỳ, Malaysia, Philippine vv...Tôi nghĩ rằng đây là một phần nằm trong một vấn đề bao quát hơn về quyền tự do hàng hải...” 

Vấn đề Biển Đông chỉ là một vấn đề khác nữa trong mối tương quan có tính ganh đua giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Theo lời nhà nghiên cứu Jaishankar, thì trong tình hình hai thế lực mới nổi tranh giành tài nguyên hầu có thể duy trì đà phát triển kinh tế hiện tại, khó có thể tránh những vụ chạm trán về quyền lợi. Đó là chưa kể một cuộc tranh chấp lãnh thổ vẫn chưa được hai bên giải quyết. 

Ông Jaishankar nói: “Hai bên đang tranh giành một vùng lãnh thổ có diện tích gần bằng nước Việt Nam...nhưng rõ rệt những sự cạnh tranh để giành các nguồn tài nguyên là một yếu tố đóng góp. Trung Quốc mua một mỏ đồng ở Afghanistan, trong khi Ấn Độ đang đấu thầu để được khai thác một mỏ sắt ở Afghanistan, phần lớn mục đích cũng là để cạnh tranh với Trung Quốc ở đó.”

Tuy chính phủ Ấn Độ chưa tuyên bố lập trường chính thức của New Dehli về các cuộc tranh chấp Biển Đông, theo lời ông Jaishankar, Ấn Độ đã mặc nhiên ủng hộ Việt Nam khi tuyên bố quan hệ hợp tác chiến lược với nước này. 

Ông Jaishankar nhận định: “Sự thực là khi loan báo quan hệ hợp tác chiến lược với Việt Nam, thì theo cách nào đó, đây là một thỏa thuận ngầm rằng Ấn Độ tôn trọng tuyên bố nhận chủ quyền của Việt Nam.”

Khi được hỏi về ý nghĩa của các nỗ lực củng cố quan hệ hợp tác an ninh và chiến lược Việt Nam-Ấn Độ, ông Jaishankar giải thích: “Quan hệ hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Ấn Độ là một quan hệ nhiều mặt, kể cả chia sẻ tin tình báo, nhưng đáng lưu ý và quan trọng hơn cả là khía cạnh hợp tác giữa lực lượng hải quân hai nước. Thực tế của khía cạnh này chưa được rõ ràng vì có rất nhiều điều còn được giữ kín, chưa phổ biến cho công chúng, thế nhưng vụ việc xảy ra hồi tháng Bảy liên quan tới một chiếc tàu Ấn Độ sau khi đi thăm Việt Nam trên đường về nước thì bị một chiếc tàu không được nhận diện, cảnh báo rằng đây là vùng biển thuộc chủ quyền Trung Quốc, đã khiến khía cạnh hợp tác giữa Việt Nam với Ấn Độ đặc biệt đáng chú ý.”

Trả lời câu hỏi về quan hệ giữa Ấn Độ, nước dân chủ đông dân nhất thế giới với nước Việt Nam, một chế độ 1 đảng, nhà nghiên cứu Ấn Độ nhắc đến những điểm tương đồng trong lịch sử Việt Nam và Ấn Độ.

Ông Jaishankar nói: “Quan hệ Việt-Ấn đã có một quá trình dài, cả hai nước đều có chung lập trường chống thực dân. Ấn Độ đã ủng hộ Việt Nam trong cuộc đấu tranh đòi độc lập từ nước Pháp, thế cho nên giưã hai bên đã có những cảm tình đặc biệt phát sinh từ thời đó, bất chấp sự kiện Ấn Độ là một nền dân chủ trong khi Việt Nam không phải là một nền dân chủ.Tôi không nghĩ sự khác biệt về thể chế cản trở quan hệ hợp tác Việt-Ấn. Ấn Độ có chính sách không bình luận về các vấn đề nội bộ của các nước khác, thế cho nên khác biệt đó không ảnh hưởng đến mối quan hệ song phương.”


Hoài Hương - VOA


Xem tin liên quan:
>> Việt Nam sẽ mua 15 tên lửa BrahMos

Bí quyết sử dụng Macro trong Excel



 
Những công việc lặp đi lặp lại luôn khiến chúng ta nhàm chán và tốn thời gian. Nhưng với Macro trong Excel bạn sẽ không phải mệt mỏi với các việc đó nữa. Bạn đã bao giờ mệt mỏi vì phải thực hiện các công việc lặp đi lặp lại trong Excel chưa?

Trong các phiên bản Excel công việc đó trở nên vô cùng đơn giản nhờ tính năng Macro. Đây là công cụ giúp bạn ghi lại các thao tác chuột và bàn phím khi chạy. Macro sẽ thực hiện một cách chính xác những hành động đó theo thứ tự mà bạn đã làm. Nhờ vậy, bạn có thể tiết kiệm thời gian cho những công việc lặp đi lặp lại nhiều lần.

Để tạo Macro bạn nhấn menu View và chọn Macros > Record Macro.


Cửa sổ Record Macro xuất hiện cho phép bạn tạo Macro mới. Đầu tiên hãy đặt tên cho Macro ở mụcMacro name. Tên có thể bao gồm chữ cái, số và ký tự gạch dưới. Tên của Macro phải bắt đầu bằng 1 chữ cái. Bạn có thể đặt các phím tắt để chạy Macro trong mục Shotcut key.


Vậy là từ giờ Excel sẽ ghi lại tất cả các bước khi bạn thực hiện công việc. Khi thực hiện xong bạn dừng việc ghi của Macro bằng cách chọn Macro > Stop Recording.


Có một điều khá rắc rối mà bạn cần chú ý. Giả sử bạn muốn di chuyển từ ô A8 đến ô B8 sau khi thực hiện 1 hành động. Bạn sẽ phải dùng phím mũi tên phải để di chuyển. Nhưng điều quan trọng là Excel sẽ không ghi nhận đó là việc sử dụng phím mũi tên phải mà chỉ hiểu là vị trí bạn muốn đến tiếp theo là ô B8. Khi bạn khởi động Macro vừa tạo tại vị trí C8, thay vì chuyển đến ô D8 như mong muốn thì Excel sẽ quay lại ô B8. Dù bạn chạy Macro ở bất cứ ô nào thì vị trí tiếp theo vẫn trở về B8.

Điều này xảy ra vì Excel hiểu đó là 1 vị trí cố định chứ không phải là vị trí tương đối. Nếu bạn muốn Excel di chuyển đến ô bên bên phải của ô hiện tại thay vì ô B8, bạn phải kích hoạt Relative References. Nó nằm trong trình đơn Macro và ở dưới Start/Stop Recording.

Sau khi ghi lại các Macro bạn sẽ không cần thực hiện các bước lặp đi lặp lại nữa. Thay vào đó bạn chọnMacro > View Macros. Tại đây sẽ hiển thị tất cả các Macro mà bạn đã tạo. Chọn Macro bạn cần và nhấnRun. Bạn cũng có thể chỉnh sửa và xóa Macro tại cửa sổ này.


Một cách khác đơn giản và được nhiều người lựa chọn hơn đó là sử dụng phím tắt. Nếu bạn quên đặt phím tắt cho Macro thì chỉ cần chọn Macro đó rồi nhấn Options và đặt lại phím tắt. Giờ đây, bạn có thể thực hiện núi công việc lặp đi lặp lại chỉ bằng cách nhấn phím tắt.

Chúc các bạn thành công!

Theo thuthuatpc.us (Addictivetips)
Thanks TRAIDATMUI

Thứ Năm, 29 tháng 9, 2011

Mở tài khoản Administrator bị giấu trong Windows 7


Mặc định trong bất kỳ phiên bản nào, trong quá trình cài đặt Windows 7 cũng đều tự tạo sẵn một tài khoản tên là Administrator (build-in Administrator). Tuy nhiên tài khoản này không được kích hoạt. Vậy làm thế nào để kích hoạt tài khoản này?
Trước hết chúng ta cần phân tích một số sự khác nhau cơ bản giữa các loại tài khoản trên máy tính sử dụng Windows 7.
- Administrator: trong quá trình cài đặt, Windows 7 sẽ yêu cầu bạn tạo một tài khoản, và tài khoàn này thuộc nhóm Administrator. Với tài khoản này bạn toàn quyền điều khiển máy tính và thực hiện bất kỳ sự thay đổi nào. Để tăng thêm sự an toàn, với một vài hành động tài khoản này sẽ bị cảnh báo bởi UAC.
Standard users: những tài khoản thuộc nhóm này có thể thực hiện hầu hết mọi công việc như tài khoản Administrator trên. Tuy nhiên với những hành động làm ảnh hưởng tới những tài khoản khác như cài đặt phần mềm hay thay đổi các thiết lập bảo mật…tài khoản này sẽ cần sự cho phép của một Administrator bất kỳ bằng cách nhập mật khẩu của  tài khoản Administrator đó vào hộp cảnh báo UAC. Nếu bạn là Administrator và bạn muốn tạo tài khoản cho một người dùng bình thường thì bạn nên tạo tài khoản dạng này.
Build-in Administrator: tài khoản này về cơ bản cũng giống tài khoản Administrator bên trên. Tuy nhiên có nhiều quyền hạn hơn và sẽ không bị cảnh báo bớiUAC.
Lưu ýNếu mở tài khoản này, bạn nên tạo cho nó một mật khẩu đủ mạnh

Thực hiện:

Cách 1: qua Local User and Groups.
Bước 1: mở Local User and Groups, chọn Users
Bước 2: bấm đúp vào tài khoản Administrator, bỏ hộp kiểm trường Account is disabled > OK.
Cách 2: qua Elevated Command Prompt.
Bước 1: mở Elevated Command Prompt.
Bước 2: nhập dòng lệnh:
net user administrator /active:yes
Nếu bạn muốn tạo luôn mật khẩu cho tài khoản này thì có thể nhập dòng lệnh sau:
net user administrator matkhau /active:yes
và bạn có thể thay ký tự matkhau bằng mật khẩu mà bạn muốn. Nếu bạn muốn ẩn không sử dụng tài khoản này, nhập dòng lệnh:
net user administrator /active:no
Cách 3: qua Local Security Polocy.
Bước 1: mở Local Security Polocy.
Bước 2: ở khung bên trái điều hướng đến nhánh Local Policies > Security Options.
Bước 3: bấm đúp chuột vào thuộc tính Accounts: Administrator account status chọn Disable.
Chúc bạn thành công!
Thanks to w3 Blog!

Thứ Tư, 28 tháng 9, 2011

VN-Philippines đẩy mạnh tuần tra chung trên biển


Trong thời gian tới quân đội hai nước Việt Nam-Philippines sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa hoạt động tuần tra chung trên biển.

Đây là một trong những lĩnh vực mà Trung tướng Đỗ Bá Tỵ, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam và Đại tướng Eduardo San Lorenzo Oban, Tham mưu trưởng Lực lượng vũ trang Philippines nhất trí cho rằng quân đội hai nước Việt Nam-Philippines cần tăng cường hợp tác.

Trong buổi hội kiến chiều 28/9, tại Trụ sở Bộ Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng quân đội hai nước Việt Nam và Philippines cho rằng, trong thập kỷ qua mặc dù quan hệ quốc phòng song phương giữa hai nước đã có bước phát triển tốt, nhưng quân đội hai nước vẫn chưa khai thác hết tiềm năng hợp tác được đề cập trong Bản Thỏa thuận về hợp tác quốc phòng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Philippines ký vào tháng 10/2010.

Do vậy, thời gian tới quân đội hai nước sẽ thúc đẩy quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực trao đổi đoàn, thiết lập đường dây nóng cấp cao, chia sẻ thông tin tình báo, diễn tập tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, giao lưu hải quân và những vấn đề cùng quan tâm, góp phần củng cố mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa quân đội và nhân dân hai nước.

Cũng trong buổi hội kiến, Trung tướng Đỗ Bá Tỵ đã cảm ơn Chính phủ Philippines trong việc ra quyết định thả 122 ngư dân Việt Nam, cũng như việc hải quân Philippines đã thông báo, cứu giúp 12 ngư dân khác của Việt Nam bị nạn trên biển ngày 1/9/2011 đồng thời chia sẻ với Đại tướng Eduardo San Lorenzo Oban trước những thiệt hại, mất mát mà nhân dân Philippines phải hứng chịu do các cơn bão gây ra thời gian qua.

Thay mặt các thành viên đoàn, Đại tướng Eduardo San Lorenzo Oban cảm ơn Trung tướng Đỗ Bá Tỵ cùng các tướng lĩnh, sỹ quan cấp cao Quân đội Nhân dân Việt Nam đã dành cho đoàn sự đón tiếp chu đáo, trọng thị, hữu nghị.

Đại tướng đánh giá cao những thành tựu phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng-an ninh mà nhân dân, Quân đội Nhân dân Việt Nam giành được trong những năm qua, tin tưởng rằng những thành tựu đó sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.

Chiều cùng ngày, Đại tướng Eduardo San Lorenzo đã đến chào Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Đại tướng Phùng Quang Thanh đã thân mật tiếp Đại tướng Eduardo San Lorenzo và đoàn./.
Xuân Trường (TTXVN/Vietnam+)

Trung Quốc cần học cách ứng xử với Mỹ và thế giới


Tư tưởng dân tộc chủ nghĩa rất có hại cho sự mở cửa của Trung Quốc với thế giới bên ngoài trong tương lai. Đặc biệt, các học thuyết âm mưu rất phổ biến trong các cuộc thảo luận về quan hệ kinh tế với bên ngoài, đặc biệt là với Mỹ.

Hệ thống dự trữ toàn cầu: USD, SDR hay NDT?
USD là một hòn đá tảng của hệ thống kinh tế quốc tế thời kỳ sau chiến tranh. Hệ thống  Bretton Woods được thành lập năm 1944 có hai trụ cột quan trọng: đồng USD quy đổi ra vàng và hầu hết các đồng tiền khác quy đổi sang USD. Hệ thống Bretton Woods sụp đổ năm 1971 khi Tổng thống Mỹ Richard Nixon đình chỉ khả năng quy đổi của USD ra vàng vì thanh khoản USD vượt quá tăng trưởng vàng. Cuối cùng, hầu hết các nước dần chuyển đổi sang cơ chế tỷ giá mềm dẻo. Nhưng USD vẫn là dự trữ ngoại tệ toàn cầu quan trọng nhất.
Niềm tin của cộng đồng quốc tế vào USD đã bắt đầu suy giảm từ cuối những năm 1990, khi thâm hụt kép của Mỹ bắt đầu tăng nhanh chóng. Trong những năm đầu thế kỷ 21, thâm hụt cán cân thanh toán của Mỹ tiếp tục nới rộng và nợ của nước này tích lũy nhanh. Nhiều chuyên gia cho rằng đây là kết quả của chính sách tiền tệ nới lỏng của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED), đặc biệt là mức lãi suất thấp, khuyến khích tiêu dùng và đầu tư thái quá. Một số người cũng đổ lỗi vấn đề này là do cái gọi là Thế tiến thoái lưỡng nan Triffen: nhu cầu ngày càng lớn đối với đồng tiền dự trữ toàn cầu (USD) đẩy Mỹ vào thâm hụt cán cân vãng lai ngày càng lớn, từ đó làm xói mòn niềm tin của giới đầu tư vào USD.
Đây là lý do khiến nhiều chuyên gia liên tục kêu gọi đa dạng hóa dự trữ ngoại tệ mà nhiều chính phủ và ngân hàng trung ương trên thế giới đang nắm giữ, đặc biệt là ở châu Á. Theo dữ liệu của IMF, tỷ lệ trung bình các tài khoản bằng USD trong tổng dự trữ ngoại tệ đã giảm gần 10% trong 10 năm trước khi xảy ra khủng hoảng sub-prime. Một số chuyên gia lo ngại về một cuộc khủng hoảng USD, kết quả của việc tranh nhau bán tài sản bằng USD trên thế giới. Nhưng cuộc khủng hoảng này đã không xảy ra. Trên thực tế, sau cuộc khủng hoảng sub-prime, USD đã tăng giá vì các nhà đầu tư vẫn coi Mỹ là một thiên đường an toàn trong những lúc bất chắc.
Tuy nhiên, câu hỏi về tương lai của đồng USD sẽ không nhanh chóng trôi qua. Đề nghị của ông Chu Hiểu Xuyên, thay đổi SDR của IMF bằng một đồng tiền dự trữ siêu quốc gia, là một lời đáp cho những lo ngại về hệ thống dự trữ toàn cầu hiện nay. Ông Chu đã khuyến cáo các bước chi tiết để cải cách SDR, bao gồm mở rộng giỏ SDR, thiết lập tỷ giá hối đoái chính thức giữa SDR với các đồng tiền quốc tế chính khác, sử dụng SDR trong một số giao dịch kinh tế quốc té, và phát hành tài sản bằng SDR. Sau này, Ủy ban Chuyên gia Tài chính và Cải cách tiền tệ của LHQ, do Joseph Stiglitz làm chủ tịch, cũng đưa ra một đề xuất tương tự nhằm tạo ra một đồng tiền dự trữ siêu quốc gia. Tạo ra đồng tiền này là một ý tưởng thông minh để vượt qua cuộc khủng hoảng cố hữu giữa chức năng toàn cầu và chính sách quốc gia của một đồng tiền dự trữ toàn cầu. Ý tưởng này có thể xuất phát từ Keynes.
Đặc biệt, SDR là một chủ đề chính trong cuộc thảo luận về cải cách hệ thống tiền tệ quốc tế tại các hội nghị G20. Vai trò của SDR có thể ít nhất mở rộng trong các lĩnh vực đầu tư dự tữ và quản lý tiền mặt. Nhưng bước đầu tiên, giỏ tiền tệ - hiện gồm USD, euro, bảng Anh và yen Nhật - cần được mở rộng hơn để đưa thêm vào một số đồng tiền của các nền kinh tế thị trường mới nổi. Tuy nhiên, bước chỉnh sửa tiếp theo sẽ không diễn ra trước năm 2015 sau khi tiến hành sửa đổi gần đây nhất vào năm 2010.
Ông Yi Gang, Phó Thống đốc PBC và là người điều hành Cục Trao đổi ngoại hối quốc gia (SAFE), mới đây đưa ra một đề xuất mở rộng SDR bằng việc trước tiên tạo ra một cái bóng của SDR. IMF đặt ra hai tiêu chí để một đồng tiền được đưa vào SDR: thị phần của một quốc gia trong thương mại toàn cầu và thị phần của đồng tiền một quốc gia trong các giao dịch tài chính quốc tế. Theo các tiêu chí này, Trung Quốc đề xuất rằng IMF tạo ra một "SDR phụ" vào năm 2011 trong đó bao gồm cả các đồng tiền của các nước BRICS. Như vậy có thể tính được chỉ số SDR phụ hoặc lãi suất và tiếp tục sửa đổi ảnh hưởng của nó trong những năm tiếp theo. Đến năm 2015, IMF có thể chính thức mở rộng giỏ SDR bằng việc đưa vào đó đồng tiền của các thị trường mới nổi.
Việc tạo ra một đồng tiền siêu quốc gia, dù cuối cùng có thể thành công, sẽ phải trải qua một tiến trình rất dài. Nó sẽ đòi hỏi các quốc gia riêng lẻ nhượng bộ chủ quyền tiền tệ của mình và thành lập một ngân hàng trung ương toàn cầu. Rất khó, nếu không muốn nói là không thể, đòi hỏi điều này trong tương lai gần.
Điều nhiều khả năng xảy ra nhất hiện nay là một hệ thống tiền tệ dự trữ đa dạng. Một mặt, USD không còn chế ngự hệ thống tài chính toàn cầu như trong nửa thế kỷ qua nữa. Mặt khác, chưa thực sự có đồng tiền nào thay thế được USD. Vì vậy, USD sẽ vẫn là một trong những ngoại tệ dự trữ quan trọng nhất trên thế giới, dù tầm quan trọng của nó có thể giảm dần. Cùng lúc đó, một số đồng tiền khác, như euro, sẽ có vai trò lớn hơn.
Theo một cách nào đó, điều này đang diễn ra. Trong 10 năm qua, thị phần của tài sản bằng euro trong dự trữ ngoại hối gia tăng đều đặn, bên cạnh đó là sự suy giảm của thị phần tài sản bằng USD. Một câu hỏi quan trọng đặt ra là liệu hệ thống dự trữ đa ngoại tệ có chỗ cho các đồng tiền của các thị trường mới nổi hay không? Hiện nay, các đồng tiền dự trữ chủ yếu là của các nước công nghiệp hóa. Nhưng vì vai trò của các nền kinh tế thị trường mới nổi ngày càng tăng, liệu các nền kinh tế này, đặc biệt là các quốc gia BRICS, có thể đóng một vai trò nào đó trong hệ thống dự trữ toàn cầu hay không?
Vai trò toàn cầu của đồng nhân dân tệ (NDT) là chủ đề được tranh cãi gay gắt cả ở trong và ngoài Trung Quốc. Tại hội thảo G20 về hệ thống tiền tệ quốc tế ở Nam Kinh tháng 4/2011, hầu hết các quan chức từ các nước G20 đều nhất trí rằng NDT nên được đưa vào giỏ SDR. Tuy nhiên, vấn đề khó khăn là liệu việc đưa đồng tiền này vào SDR có nên đi kèm với điều kiện là khả năng hoán đổi của tài khoản vốn và độ mềm dẻo của tỷ giá hối đoái NDT hay không.
Việc quốc tế hóa đồng NDT đã được nhắc lại khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Đây ít nhất là một câu trả lời trước triển vọng mù mờ của USD. Từ giữa năm 2008, PBC đã thu hẹp biên độ tỷ giá hối đoái của NDT, nhưng cùng lúc lại tăng tốc quá trình quốc tế hóa đồng tiền này.
Cuộc cải cách triệt để chính sách đồng NDT đã bắt đầu từ đầu năm 1994, khi PCB thống nhất tỷ giá chính hối đoái chính thức và trên thị trường, và thông qua một cơ chế thả nổi có kiểm soát. Những năm sau đó, NDT đã dần dần tăng giá cho đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á. Sau nhiều lần tạm ngừng trong thời gian khủng hoảng tài chính châu Á và khủng hoảng sub-prime ở Mỹ, NDT đã trở lại cơ chế thả nổi có quản lý từ ngày 19/6/2010. Nhưng nhìn chung, tỷ giá hối đoái của đồng tiền này vẫn rất cứng nhắc và NDT có thể vẫn đang bị định giá thấp hơn giá trị thực - bằng chứng là thặng dư cán cân thanh toán rất lớn và dự trữ ngoại tệ tăng nhanh của Trung Quốc.
Tháng 12/1996, PBC thông báo với IMF việc áp dụng khả năng hoán đổi cán cân thanh toán. Dù việc này liên tiếp bị hoãn vì nhiều cuộc khủng hoảng tài chính bên ngoài, nhưng Trung Quốc đã tiếp tục các bước hướng tới tự do hóa tài khoản vốn, bao gồm việc thông qua các mô hình Đầu tư chứng khoán của các định chế nước ngoài (QFII) và Đầu tư chứng khoán của các định chế trong nước (QDII), sử dụng NDT trong các giao dịch kinh tế quốc tế với các nước láng giềng, và thiết lập một thị trường NDT ở Hong Kong. Trên thực tế, một số ngân hàng trung ương như ở Thái Lan và Nga đã bắt đầu coi NDT là ngoại tệ dự trữ của mình.
Nhưng NDT vẫn còn một con đường dài trước khi được quốc tế hóa. PBC vẫn can thiệp mạnh vào các thị trường ngoại hối và kiểm soát chặt chẽ các dòng vốn xuyên biên giới, đặc biệt là đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, thanh toán nợ và danh mục vốn đầu tư của các ngân hàng. Quan trọng nhất, chính thị trường quốc tế, chứ không phải chính quyền Trung Quốc, quyết định việc NDT có trở thành đồng tiền quốc tế hay không.
Trung Quốc đã thấy rõ sự cần thiết phải cải cách hệ thống tiền tệ quốc tế. Họ cũng quan tâm tới việc thúc đẩy quốc tế hóa đồng NDT. Tuy nhiên sẽ có lợi nhất cho Trung Quốc và thế giới nếu đảm bảo sự chuyển tiếp êm ả của hệ thống dự trữ toàn cầu. Trung Quốc, Mỹ và các nền kinh tế lớn nên phối hợp hỗ trợ sự ổn định của USD. Sau cùng, USD vẫn là đồng tiền quan trọng nhất đối với các giao dịch kinh tế của Trung Quốc với nước ngoài và chiếm khoảng 60% trong số hơn 3.000 tỷ USD dự trữ ngoại tệ của nước này.
Các đề nghị, vai trò và trách nhiệm của Trung Quốc
Có thể kết luận bằng cách trả lời ba câu hỏi liên quan đến quan điểm của Trung Quốc về cải cách hệ thống kinh tế quốc tế: Trung Quốc muốn gì? Họ có thể mang đến những gì? và Trách nhiệm của họ là gì?
Trung Quốc muốn gì? Trung Quốc muốn biến đổi hệ thống kinh tế quốc tế để phản ánh thực tế mới của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là tầm quan trọng ngày càng gia tăng của các nền kinh tế thị trường mới nổi. Đồng thời, Trung Quốc cũng hy vọng duy trì các đặc điểm tích cực của hệ thống hiện nay vốn đã góp phần tạo ra sự thịnh vượng của nền kinh tế toàn cầu trong những thập kỷ qua, đặc biệt là sự thúc đẩy tự do thương mại, tự do của các dòng vốn, và toàn cầu hóa.
Trung Quốc là nước hưởng lợi chính từ hệ thống quốc tế hiện nay và sẽ vẫn giúp cải thiện nó. Trung Quốc không quan tâm tới việc xây dựng một hệ thống hoàn toàn mới bên cạnh cái hiện có. Nhưng hệ thống kinh tế quốc tế mới nên tăng vai trò ảnh hưởng của các nền kinh tế thị trường mới nổi và chú ý nhiều hơn tới các điều kiện của các nước đang phát triển khi lập ra các quy định kinh tế.
Trung Quốc ủng hộ tiến trình G20, tiến trình có thể kết hợp tốt nhất giữa tính hiệu quả và tính đại diện. G7 hay G8 - cái gọi là câu lạc bộ những nước giàu - là một thể chế đã lỗi thời. Trung Quốc đánh giá cao quan hệ đối tác với Mỹ, nhưng không tìm cách thể chế hóa một nền tảng G2 trong các vấn đề kinh tế quốc tế.
Các tổ chức quốc tế nên có trách nhiệm toàn cầu nhiều hơn, như giám sát kinh tế vĩ mô, điều tiết tài chính và quản lý lưu thông tiền mặt toàn cầu. Nhưng trước hết, các tổ chức này cũng sẽ cần tiến hành các cuộc cải cách nhằm tăng tính đại diện, hiệu quả và công bằng. Cấu trúc điều hành của các tổ chức quốc tế nên thay đổi nhằm phản ánh đúng hơn tầm quan trọng ngày càng lớn của các nền kinh tế thị trường mới nổi. Và việc đặt ra các quy định kinh tế quốc tế cũng nên chú ý hơn tới các điều kiện hiện nay của các nước đang phát triển.
Hệ thống dự trữ toàn cầu đang cần cải cách khẩn cấp. Giới chức Trung Quốc gần đây đề nghị một giỏ SDR phụ, bao gồm cả một số đồng tiền của các nước BRICS trước khi có sự sửa đổi chính thức SDR vào năm 2015. Tuy nhiên trong tương lai gần, một hệ thống dự trữ đa hối sẽ nhiều khả năng xảy ra hơn. Trung Quốc quan tâm đến việc tìm kiếm một vai trò của NDT trong tương lai, bên cạnh euro và một số đồng tiền khác. Trước mắt, Trung Quốc, Mỹ và các nước khác trên thế giới sẽ có lợi hơn nếu đồng USD được ổn định.
Trung Quốc có thể đem đến những gì? Là nền kinh tế thị trường mới nổi lớn nhất và năng động nhất, Trung Quốc cũng có thể đóng góp vào cuộc cải cách hệ thống kinh tế quốc tế. Điều này phù hợp với mục tiêu của Trung Quốc phối hợp với các nước khác xây dựng một thế giới hài hòa. Như Trung Quốc đã thể hiện trước đây trong các cuộc thương lượng về các vấn đề khó như sự biến đổi khí hậu và tái cân bằng toàn cầu, họ ưu tiên giải quyết các vấn đề thông qua hợp tác, chứ không phải đối đầu.
Quan hệ đối tác Mỹ - Trung là cần thiết nhưng không phải là điều kiện đủ cho hợp tác kinh tế quốc tế trong nhiều lĩnh vực. Đối thoại Chiến lược và Kinh tế định kỳ giữa hai nước là một khuôn khổ quan trọng cho hai bên trao đổi quan điểm về các vấn đề song phương và đa phương. Trung Quốc cũng muốn phối hợp với các thành viên khác của BRICS để đưa ra các quan điểm chính sách thị trường mới nổi và cùng nhau thúc đẩy các sáng kiến này trong khuôn khổ toàn cầu như G20 và IMF.
Trung Quốc có thể giúp hỗ trợ việc ổn định USD trên các thị trường ngoại hối, như thông qua sự quản lý uyển chuyển đối với lượng dự trữ ngoại tệ rất lớn của họ. Nhưng điều này đòi hỏi sự hợp tác của Mỹ về cách quản lý của riêng họ đối với các chính sách tiền tệ và tài chính. Trung Quốc cũng có thể hỗ trợ quá trình tái cân bằng toàn cầu bằng việc trước tiên giảm thặng dư cán cân thanh toán của mình. Trung Quốc cũng có thể có lợi khi chống lại chủ nghĩa bảo hộ thương mại trên thế giới và giúp hoàn tất vòng đàm phán Doha về tự do hóa thương mại.
Trung Quốc có trách nhiệm gì? Trước tiên, với vai trò là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung Quốc cần bỏ tâm lý quốc gia nhỏ. Các quyết định kinh tế của bất cứ quốc gia nào cũng nên tính đến các phản ứng có thể của các nước khác. Chính sách tỷ giá hối đoái là một ví dụ điển hình. Những thay đổi của đồng tiền trong một quốc gia nhỏ không có tác động nào đối với thế giới, nhưng thay đổi này tại một nước lớn như Trung Quốc có thể dẫn tới những thay đổi lớn trong thương mại toàn cầu và các cấu trúc sản xuất.
Thứ hai, tư tưởng dân tộc chủ nghĩa rất có hại cho sự mở cửa của Trung Quốc với thế giới bên ngoài trong tương lai. Đặc biệt, các học thuyết âm mưu rất phổ biến trong các cuộc thảo luận về quan hệ kinh tế với bên ngoài, đặc biệt là với Mỹ. Nếu chúng ta không giảm thiểu hiệu quả sự ảnh hưởng của các tư tưởng thời chiến tranh Lạnh trong các quyết định chính sách kinh tế quốc tế, chúng ta sẽ không thể trở thành một đối tác đáng tin cậy của các quốc gia khác trong việc cải cách hệ thống kinh tế quốc tế.
Thứ ba, Trung Quốc nên thúc đẩy hơn nữa tự do hóa nền kinh tế của mình và tiến gần hơn tới một nền kinh tế thị trường, trong đó có các cuộc cải cách cơ chế tỷ giá hối đoái, kiểm soát tài khoản vốn và biến động tại các thị trường tác nhân khác. Đồng thời, Trung Quốc cũng nên thúc đẩy sự phát triển của khối tư nhân và giảm ảnh hưởng của khối nhà nước, đặc biệt là trong các lĩnh vực kinh tế quốc tế. Điều này rất quan trọng để hỗ trợ cho một hệ thống kinh tế quốc tế mở và hiệu quả.
Và cuối cùng, cũng có thể đã đến lúc để Trung Quốc học cách làm việc với Mỹ và các thành viên khác của G20 để cung cấp các dịch vụ hàng hóa công cho nền kinh tế thế giới. Cùng với việc Trung Quốc và các nền kinh tế mới nổi khác đòi có thêm quyền, họ cũng nên chia sẻ thêm trách nhiệm trong việc duy trì một môi trường kinh tế toàn cầu ổn định, thực thi các luật lệ kinh tế quốc tế và giúp đỡ các quốc gia tạm thời đang phải hứng chiu những cú sốc không mong muốn./.
  • Châu Giang dịch từ cuốn Rising China: Global Challenges and Opportunities
Lên đầu trang
Vào giữa trang
Xuống cuối trang