Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2011

Ba giá trị quân sự của Biên Đông đối với Trung Quốc


Báo Đông Phương buổi sáng (Thượng Hải) ngày 26/7 đăng bài viết của tác giả Mã Nghiêu, phân tích 3 giá trị quân sự của Biển Đông đối với Trung Quốc. Nội dung chính như sau:
Với diện tích rộng, độ sâu lớn, vị trí chiến lược hiểm yếu và nguồn tài nguyên phong phú, Biển Đông có giá trị hết sức to lớn về mặt quân sự. Nhất là với một nước lớn đang trỗi dậy như Trung Quốc thì giá trị quân sự mà Biển Đông mang lại là không gì thay thế được. Giá trị này chủ yếu thể hiện trên 3 phương diện:

Thứ nhất, Biển Đông là mặt trận quan trọng đối với tương lai phát triển lực lượng hàng không vũ trụ của Trung Quốc. Trung Quốc hiện đang xây dựng Trung tâm phóng tên lửa hàng không Văn Xương trên đảo Hải Nam, nơi có vĩ độ thấp thuận lợi cho việc phóng tàu vũ trụ. Trong tương lai, đây sẽ là nơi Trung Quốc tiến hành phóng các loại tên lửa và các thiết bị hàng không phục vụ mục đích chinh phục vũ trụ. Việc tiến hành các hoạt động hàng không, trong đó có phóng tên lửa đẩy tại các đảo ngoài khơi có vĩ độ thấp đỏi hỏi phải có sự đảm bảo về mặt chủ quyền, quyền chủ quyền trên biển. Hiện nay, các cơ sở nghiên cứu phát triển công nghệ hàng không vũ trụ và tên lửa đẩy của Trung Quốc hầu hết đều đặt tại những trung tâm khoa học kỹ thuật lớn, nằm ven biển phía Đông như Thượng Hải và Thiên Tân, trong khi 3 trường bắn tên lửa cũ là Tây Xương, Tửu Tuyền và Thái Nguyên đều nằm sâu trong lục địa, điều này khiến cho tên lửa sau khi chế tạo xong phải vận chuyển một quãng đường khá dài bằng đường bộ để tới các trường bắn. Nếu so sánh với vận tải bằng đường biển thì vận tải đường bộ gặp nhiều hạn chế hơn, do đó việc đặt Trung tâm phóng tên lửa Văn Xương trên đảo Hải Nam là đã cân nhắc đến yếu tố này. 
 

ảnh minh họa

Thứ hai, Biển Đông là địa bàn hoạt động cơ động và căn cứ trú ẩn ưu việt cho lực lượng hải quân hạt nhân của Trung Quốc trong tương lai. Quân đội Mỹ từ thế kỷ trước đã bắt đầu tiến hành nghiên cứu công nghệ lazer rà quét tàu ngầm, với mục tiêu phát hiện các thiết bị lặn ở độ sâu 150m. Trong các vùng biển xung quanh Trung Quốc, Bột Hải có độ sâu trung bình chỉ 18m, Hoàng Hải có độ sâu trung bình là 44m, với độ sâu này thì thiết bị thăm dò nói trên hoàn toàn có thể kiểm soát toàn bộ. Đông Hải tuy có độ sâu đạt 370m, nhưng Mỹ - Nhật Bản đã bố trí tại đây những hệ thống rà quét tiên tiến, khả năng tàu ngầm Trung Quốc bị phát hiện là rất cao. Chỉ có Biển Đông với độ sâu trung bình đạt tới 1.212m mới là môi trường và địa điểm ưu việt để xây dựng căn cứ tàu ngầm hạt nhân.
Hải quân Trung Quốc hiện nay chưa đủ năng lực để vươn ra kiểm soát vòng cung “chuỗi đảo thứ hai” và khu vực Ấn Độ Dương, do đó trong tình hình hiện nay thì Biển Đông là khu vực duy nhất lực lượng tàu ngầm hạt nhân có thể tiến hành hoạt động tuần tra chiến lược.

Cuối cùng, Biển Đông là vùng biển lý tưởng nhất để hàng không mẫu hạm có thể thực hiện các hoạt động huấn luyện và diễn tập.Hiện nay, do nhiều nhân tố như chiến lược phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật, thực lực kinh tế,… hải quân Trung Quốc trên thực tế mới chỉ phát triển được tàu ngầm và các loại tàu chiến vừa và nhỏ. Để chủ động nắm ưu thế kiểm soát trên biển thì hàng không mẫu hạm là chỗ dựa đáng tin cậy, đồng thời cũng là phương tiện duy nhất hiện nay mang lại sự bảo đảm trên không cho hạm đội khi tác chiến tại các vùng biển xa. Với đặc điểm là loại tàu chiến mặt nước có kích thước và trọng tải lớn nhất, đồng thời kèm theo nó là biên đội khoảng 10 tàu các loại, hàng không mẫu hạm cần những vùng biển rộng lớn để tiến hành diễn tập và huấn luyện. Điều này là khó thực hiện tại những vùng biển nhỏ như Bột Hải, Hoàng Hải và Đông Hải, mặt khác lại dễ gây phản ứng từ phía các nước xung quanh như Nhật Bản, Hàn Quốc. Chỉ có Biển Đông là khu vực lý tưởng cho hàng không mẫu hạm Trung Quốc, không chỉ bởi thực lực quân sự của các nước ven Biển Đông khá yếu mà thế lực của Mỹ tại đây cũng không lớn như tại khu vực Đông Bắc Á.

Tóm lại, Biển Đông có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với quá trình vươn lên trở thành một cường quốc hải dương, cường quốc vũ trụ; là vùng biển chiến lược để Trung Quốc phát triển lực lượng hải quân biển xa.

(gt)/nghiencuubiendong

Xem Hải quân Việt Nam thao diễn bắn tên lửa


Trong khuôn khổ Hội nghị Tư lệnh Hải quân các nước ASEAN lần thứ 5 (ANCM-5), theo lời mời của nước chủ nhà, các trưởng đoàn và thành viên tham dự hội nghị tới thăm một số đơn vị của Hải quân Nhân dân Việt Nam.


Tổ hợp tên lửa bờ đang thao diễn Ảnh: CTV.
 
Đó là Đoàn tên lửa bờ 679 hiện đại và Bảo tàng Hải quân tại Hải Phòng. Thành lập tháng 6-1979, Đoàn tên lửa bờ 679 có nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng triển khai tới các trận địa dọc bờ biển và trên các đảo, phối hợp tác chiến cùng các đơn vị khác của lực lượng Hải quân và Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến công tiêu diệt các tàu địch trên biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo và thềm lục địa của Tổ quốc.

Ngoài ra, cán bộ chiến sĩ của Đoàn 679 còn thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn, giúp dân phòng chống lụt bão, phòng chống cháy nổ, cháy rừng…
 
Tư lệnh Hải quân các nước Malaysia, Việt Nam, Singapore và Philippines (từ trái qua) đang trao đổi và tham quan tổ hợp tên lửa bờ. Ảnh: CTV.


Tại đây, Tư lệnh Hải quân các nước ASEAN đã tham quan tổ hợp khí tài tên lửa bờ REDUT-M và chứng kiến thao diễn bắn tên lửa tiêu diệt mục tiêu trên biển do kíp trắc thủ của Đoàn 679 thực hiện. Được biết, đây là loại tổ hợp tên lửa có tầm bắn xa và độ chính xác cao khi tấn công mục tiêu.
 
Sĩ quan tác chiến thuộc Đoàn 679 chuẩn bị thao diễn bắn tên lửa diệt mục tiêu trên biển.


Tại Bảo tàng Hải quân, các đại biểu đã nghe giới thiệu về quá trình ra đời, xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Hải quân Nhân dân Việt Nam. Tư lệnh Hải quân Malaysia, Đô đốc Tan Sri Abdul Aziz bin Jaafar cho rằng, Hải quân Nhân dân Việt Nam có những bước phát triển đáng kể. Với những trang thiết bị hiện đại, Hải quân Việt Nam đã chứng tỏ được vai trò của mình trong thực hiện nhiệm vụ, góp phần giữ gìn hòa bình và an ninh khu vực.

Minh Nguyễn – CTV
 
Hải quân Việt Nam - Singapore tăng cường hợp tác

Trong buổi tiếp đoàn Hải quân Singapore do Chuẩn Đô đốc Ng Chee Peng dẫn đầu sau khi bế mạc ANCM-5, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Trung tướng Đỗ Bá Tỵ cho rằng hải quân các nước ASEAN cần có sự trao đổi, thống nhất quan điểm về các vấn đề liên quan tới Biển Đông.

Thời gian qua, quan hệ hợp tác giữa quân đội và hải quân Việt Nam - Singapore đạt được nhiều kết quả tốt đẹp trên lĩnh vực trao đổi đoàn, đào tạo ngôn ngữ, chia sẻ thông tin hàng hải, phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn.

Tư lệnh Hải quân Singapore mong muốn thời gian tới QĐND Việt Nam giúp đỡ quân đội Singapore đào tạo cán bộ phiên dịch tiếng Việt, cử sỹ quan làm việc tại trung tâm chia sẻ thông tin của lực lượng Hải quân Singapore, góp phần tăng cường tình đoàn kết hữu nghị, nâng cao hiệu quả hợp tác phát triển giữa quân đội và hải quân hai nước.

M.N (Tổng hợp)


Theo tienphong

Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2011

Thiếu tướng, cựu Đại sứ VN ở TQ: "Bằng chứng của TQ là hàng giả!"


(GDVN) - Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đã bước sang tuổi 95 nhưng vẫn vô cùng mẫn tiệp. Là người có thâm niên 13 năm làm Ðại Sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Trung Quốc ở  thời điểm nhạy cảm nhất (1974-1989), tướng Vĩnh có những đánh giá rất sâu sắc về hành động và ý đồ ngang ngược của Trung Quốc trên biển Đông. 

TQ không hề có thư tịch gì về Trường Sa, Hoàng Sa
PV: Ông có bất ngờ về sự việc tàu Trung Quốc liên tục cắt cáp tàu Việt Nam?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh
 Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi không bất ngờ.
PV: Là người sống và làm việc 13 năm tại Bắc Kinh với cương vị Ðại Sứ đặc mệnh toàn quốc Việt Nam, có bao giờ ông được chính phủ Trung Quốc trưng ra bằng chứng về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của họ?
Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Chưa lần nào! Tôi sống tại Trung Quốc nhiều năm nhưng chưa lần nào thấy họ nói chính thức về vấn đề này.


Tôi cũng đã nhiều lần lần tìm thư tịch của họ để tìm hiểu xem chứng cứ chủ quyền nếu có của họ về hai quần đảo này nhưng không hề có.
PV: Vậy những dữ kiện mà họ nói do Tướng Trịnh Hòa (thời nhà Minh) thu thập được khi đến đảo Hoàng Sa thì sao?





          Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi cam đoan đó chỉ là hàng giả!  Đó chỉ là trên phim của họ, họ tả là tướng Trịnh Hòa đem thương thuyền đi xuống Ấn Độ dương. Họ lướt chỗ nọ chỗ kia coi như dò đường thôi chứ có phải đi thực hiện chủ quyền đâu. Như vậy những chứng cứ do Trịnh Hòa thu được không đủ làm căn cứ để xác định chủ quyền của họ ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Phải là quản lý thì mới khẳng định chủ quyền chứ. Tôi nói giả sử, đi qua nhặt được cái gì đó thì đó đâu phải là thực thi chủ quyền.
“Sự việc cắt cáp làm rơi mặt nạ hòa bình của Trung Quốc”
PV: Ông đánh giá gì khi Trung Quốc liên tiếp có các hành vi gây hấn, thách thức sự kiên nhẫn, lòng yêu nước, trân trọng hòa bình của người dân Việt Nam?
Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi đã có 13 năm làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Trung Quốc. Đó là thời gian quan hệ Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian cam go, thử thách nhất. Sỡ dĩ nói rằng không bất ngờ vì tôi ở Trung Quốc đã lâu, đã biết bản chất của Trung Quốc là bá quyền nước lớn. Tư tưởng bành trướng bá quyền nước lớn, ngàn năm cũng chưa từ bỏ. 
Cho nên những việc họ làm, không chỉ tàu Bình Minh 02, Viking mà trước đây từ việc chiếm quần đảo Hoàng Sa, một số đảo ở quần đảo Trường Sa, bắt ngư dân, cấm ngư dân đánh cá… là biểu hiện của chủ nghĩa bá quyền nước lớn. Đến sự việc này, tôi không lạ nữa.

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh từng giữ các chức vụ Chính Ủy Khu 1 (1947), Cục Trưởng Cục Tổ Chức Tổng Cục Chính Trị (1950); Chính Ủy Quân Khu 1 (1958), Bí Thư Tỉnh Ủy Thanh Hóa (1961-1964), Ủy Viên Dự Khuyết Trung Ương Ðảng (1960-1976).

 Một lý do khác, đến thời điểm này, họ có tham vọng bá chiếm cả tài       nguyên của Biển Đông, vì họ thiếu thốn, thèm khát dầu khí. Khi họ thấy  ta thăm dò định khai thác, thì họ phải tìm cách cản trở. 

Dù đã bị ta phản đối, nhân dân, báo chí, dư luận Việt Nam và quốc tế chỉ trích sau sự việc ngày 26/5 (tàu Bình Minh 02 bị tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp thăm dò dầu khí – PV) nhưng với tính chất ngoan cố, ngang ngạch và cậy là kẻ mạnh, họ lại tiếp tục gây ra sự việc với tàu Viking 2. 


                 Tôi có thể kết luận, hai vụ việc xảy ra với tàu Bình Minh 02 và Viking làm rơi mặt nạ hòa bình mà Trung Quốc vẫn đeo, lộ ra nguyên hình bộ mặt bá quyền nước lớn ăn hiếp nước nhỏ, nói một đằng làm một nẻo.
“Cố tình đổi trắng thay đen”
PV: Tuy nhiên, vẫn có một số ý kiến cho rằng vì đã hoàn tất đàm phán, phân giới cắm mốc trên bộ nên đây là thời điểm Trung Quốc tỏ ra cứng rắn hơn tại Biển Đông?
Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Không phải. Mọi hoạt động vừa qua chỉ cho thấy Trung Quốc đang từng bước làm mọi điều vì lợi ích ích kỷ cho họ. Ngay từ giai đoạn giữa những năm 1970, khi tôi là Đại sứ tại Trung Quốc, hai bên Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành đàm phán phân định cắm mốc biên giới trên bộ, vịnh Bắc bộ. Nhưng phải đến gần đây quá trình đàm phán mới hoàn tất. 
PV: Ông nghĩ  sao khi những ngày vừa qua, quan chức cũng như báo giới Trung Quốc đăng tải những thông tin rất sai lệch về sự việc tại biển Đông? Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn ra tuyên bố yêu cầu phía Việt Nam chấm dứt ngay các hoạt động xâm phạm chủ quyền và tránh tạo ra những sự cố mới?
Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Tuyên bố nêu trên của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc một lần nữa cho thấy họ cố tình “đổi trắng thay đen”, cố tình làm cho dư luận hiểu sai bản chất của vụ việc. Nhiều nước sẽ ủng hộ chính nghĩa của chúng ta

PV: Trong bối cảnh này, theo ông Việt Nam nên xử lý ra sao?
Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Chính sách của chúng ta là hòa bình, xưa nay đều thế. Thời điểm này, chúng ta phải đấu tranh lý lẽ một cách quyết liệt. Họ muốn bí mật, song phương thì ta phải công bố toàn bộ các cứ liệu lịch sử cho nhân dân ta và dư luận thế giới thấy rõ ai phải ai trái. Thế giới biết và ủng hộ thì Trung Quốc không thể hung hăng được nữa.
Tôi cũng muốn nói thêm, thời đại này muốn phát động vũ lực cũng không phải dễ dàng. Ta càng đấu tranh công khai, càng quốc tế hóa thì thế của ta càng vững.
PV: Hiện có nhiều ý kiến lo ngại sự chia rẽ trong các nước ASEAN về vấn đề biển Đông cũng tựa như hình ảnh chia bó đũa thiếu sự kết dính. Trung Quốc có thể lợi dụng điều này để giải quyết vấn đề biển Đông theo hướng có lợi cho họ?
Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Một là, nước nào cũng có lợi ích chung và riêng. Hai là, lợi ích trước tiên lúc này là lợi ích kinh tế. Điều đó là tự nhiên. Tất nhiên, về lý thuyết, thế giới là bình đẳng, nhưng trên thực tế, các nước lớn luôn dùng nhiều loại sức ép, cả chính trị, kinh tế và quân sự để áp đặt ý đồ của mình lên các nước nhỏ. 
Trong bối cảnh đó, giải pháp tối ưu là phải xác định được thế mạnh của bản thân mình. Với trường hợp của ta, cần phải đẩy mạnh mặt trận ngoại giao - pháp lý, làm cho cả dân ta, dân họ và cả cộng đồng quốc tế hiểu và ủng hộ.
Nếu ta công khai, thì dù một số nước không có quyền lợi thiết thực gắn với biển Đông, nhưng tôi chắc rằng họ sẽ lên tiếng, ủng hộ cho chính nghĩa, lẽ phải của chúng ta, của bạn bè.
  
PV: Quay trở lại thời gian ông làm đại sứ tại Trung Quốc. Theo ông, báo giới và nhân dân Trung Quốc nhìn nhận ra sao về tranh chấp tại biển Đông?
Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Nhân dân Trung Quốc phần đông rất hữu nghị, trân trọng tình cảm với nhân dân ta. Ngay trong những năm 1979 – 1989, khi anh chị em tại Đại sứ quán ta tại Trung Quốc đi chợ, nhân dân Trung Quốc vẫn đối xử vẫn bình thường. 
“Trở ngại lớn nhất là tư tưởng bá quyền”
PV: Trung Quốc tuyên truyền ra sao về vấn đề tranh chấp chủ quyền tại biển Đông?
Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Họ tuyên truyền rất mạnh, rằng biển Đông là biển Nam Sa của họ. Họ giáo dục rất sâu trong nhà trường, chiếm nhiều tiết học…
PV: Vậy theo ông, chúng ta làm thế nào nói cho nhân dân Trung Quốc hiểu được bản chất vấn đề?
Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Ta cũng phải tuyên truyền, xuất bản văn kiện bằng tiếng Trung Quốc trên mạng và nhiều hình thức khác. 
PV: Dĩ nhiên, việc giải quyết các tranh chấp trên biển Đông hiện nay rất phức tạp. Theo ông hiện có những tồn tại, trở ngại chính nào trong tiến trình giải quyết vấn đề?
Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Trở ngại lớn nhất là tư tưởng bá quyền.

PV: Thời gian vừa qua, Trung Quốc liên tục phát triển sức mạnh quân sự với tàu bay, tàu ngầm, tàu sân bay. Dư luận đặt câu hỏi, vậy đâu là sức mạnh Việt Nam?
Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Nói về sức mạnh, không đơn thuần chỉ bao gồm những thứ đó. Dân tộc ta đã có kinh nghiệm hàng ngàn năm lấy ít đánh nhiều, nhỏ thắng lớn. Ngoài ra còn sức mạnh thời đại, thế giới họ nhìn thấy điều đó, ta phải nói cho họ biết.
“Phải dạy lịch sử, tình yêu nước nhiều hơn nữa!”

PV: Muốn giải quyết những trở ngại đó, đâu là giải pháp ngắn hạn và dài hạn cho Việt Nam?
Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Phải đấu tranh lý lẽ, bằng các tư liệu, bằng báo chí trước tiên. Đưa lên Liên hiệp quốc, nói cái phi pháp của họ ra. Còn tình huống xấu hơn tôi nghĩ sẽ không xảy ra, khi cả thế giới hiểu được ta có chính nghĩa. Việc đó sẽ làm Trung quốc bớt hung hăng đi.
Đồng thời chúng ta phải dạy lịch sử, tình yêu nước nhiều hơn nữa… Tôi rất buồn khi ngày nay, nhiều con trẻ thuộc sử Trung Quốc hơn cả sử ta, phim ảnh, truyền hình cũng vậy… 

PV: Hiện có nhiều ý kiến đề nghị phải kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế, theo ông có nên?
Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: Chúng ta phải tiếp tục kiên quyết đấu tranh và gửi công hàm lên Liên Hiệp quốc tố cáo Trung Quốc vi phạm Công ước luật Biển năm 1982. Chúng ta công khai các tài liệu để đấu tranh, cho thế giới biết thực chất vấn đề.
Xin cảm ơn ông!

CÁC TIN LIÊN QUAN:


Theo BAOMOI

Đại tướng Phạm Văn Trà phân tích tình hình biển Đông


Chính phủ chuẩn bị báo cáo Quốc hội tình hình biển Đông. Đại tướng Phạm Văn Trà, nguyên bộ trưởng Bộ Quốc phòng - người đã ba lần ra làm việc tại Trường Sa và đi đủ 33 điểm đảo chia sẻ quan điểm về bảo vệ biển đảo thời nay: “Nghiên cứu xây dựng kế hoạch phòng thủ, bảo vệ vùng biển - đảo luôn là một nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan tham mưu tác chiến chiến lược”.
 
Đại tướng PHẠM VĂN TRÀ
Đại tướng PHẠM VĂN TRÀ
 

- Tôi đã thị sát tại Trường Sa ba lần. Lần đầu vào năm 1994, khi tôi được bổ nhiệm làm phó tổng tham mưu trưởng, phụ trách tác chiến. Hai chuyến đi sau đó diễn ra năm 1995 và 1996. Tôi đi lâu, đi sâu chứ không đi “theo đoàn” và đã cố gắng đi hết tới toàn bộ các đảo nổi, đảo chìm, tìm hiểu mọi tình hình trên đảo. Thời đó còn rất nhiều khó khăn so với bây giờ nhưng chúng tôi luôn nghĩ nâng cao sức mạnh bảo vệ biển đảo.

Qua những lần ra Trường Sa, tôi rất băn khoăn khi đến nhiều đảo chỉ thấy đá, cát và san hô, con người trần trụi bốn mùa, suốt ngày đêm chống chọi với gió, cát, bão tố. Tôi đã chỉ đạo phải tìm cách đem màu xanh ra đảo. Thế là mỗi năm ta đã mang hơn 5.000 tấn đất phát cho các đảo để anh em trồng cây, trồng rau. Nhờ đó, sức sống Trường Sa ngày càng phát triển.

Về tổ chức phòng thủ, tôi cũng rất quan tâm việc quy hoạch, xây dựng hệ thống công sự trận địa liên hoàn, vững chắc, có chiều sâu...

Trường Sa đủ mạnh

* Ngày trước ông ra Trường Sa bằng tàu HQ996. Đến nay tàu này vẫn hoạt động, phải chăng việc hiện đại hóa chưa được chú trọng?

- Không phải vậy. Tàu 996 là tàu vận tải, chở khách vẫn đang hoạt động tốt thì chưa cần thay thế. Trong điều kiện kinh tế còn hạn hẹp thì chúng ta phải xác định hiện đại hóa quân đội có trọng tâm, trọng điểm. Có cái hiện đại ngay, có cái từng bước hiện đại. Về tàu thuyền cũng vậy, tàu chiến được ưu tiên hiện đại hóa sớm hơn, nhiều hơn so với tàu chở khách. Trình độ đóng tàu của mình bây giờ đã tốt rồi, đủ sức đóng được nhiều tàu lớn, xuất khẩu được cả ra nước ngoài. Cái chính là có tiềm lực thì sẽ hiện đại hóa nhanh.

* Những diễn biến nóng gần đây khiến nhiều người lo ngại, đại tướng có thể chia sẻ điều gì? Thời kỳ làm lãnh đạo Bộ tổng tham mưu rồi Bộ Quốc phòng, ông đã quan tâm nhiều nhất đến vấn đề gì cho Trường Sa?

- Vùng biển và thềm lục địa của ta, đặc biệt là các khu vực có dầu khí thường là “điểm nóng” do có tranh chấp của một số nước trong khu vực. Vì vậy, nghiên cứu xây dựng kế hoạch phòng thủ, bảo vệ vùng biển - đảo luôn là một nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan tham mưu tác chiến chiến lược. Về kế hoạch phòng thủ, chúng tôi đã tham gia nghiên cứu sâu, sưu tầm tài liệu, chuẩn bị các phương án. Chúng tôi cũng đã phối hợp với các bộ ngành, bằng các biện pháp quân sự để bảo đảm giữ vững chủ quyền, ngăn chặn các xung đột quân sự.

Kế hoạch bảo vệ khu vực quần đảo Trường Sa và cụm dịch vụ kinh tế - khoa học - kỹ thuật (DKI) cũng như các đảo Thổ Chu, Phú Quốc, Côn Đảo, Phú Quý... đã không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Chúng ta đã tổ chức lực lượng phòng thủ, tuần tra, duy trì tàu trực chiến để phát hiện, xua đuổi tàu nước ngoài xâm nhập trái phép; kết hợp các hoạt động kinh tế và dịch vụ trên biển. Năm 1998, Cục Cảnh sát biển thuộc Bộ tư lệnh hải quân ra đời, có ý nghĩa quan trọng trong việc tham gia bảo vệ biển đảo.

* Nhiều ý kiến cho rằng bảo vệ Trường Sa phải xây dựng lực lượng thật sự tinh nhuệ?

- Thực tế từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cho thấy đối với đảo nhỏ, nếu ta phòng ngự đông, khi địch tiến công rất dễ thương vong lớn. Mà thương vong lớn dễ làm anh em hoang mang, dao động, mất sức chiến đấu. Ngược lại, bố trí binh hỏa lực hợp lý, có hệ thống công sự vững chắc, phòng ngự có chiều sâu cộng với vũ khí trang bị đầy đủ, hợp lý thì chỉ cần số lượng binh sĩ hợp lý vẫn có thể bảo vệ đảo. Thực tiễn các đơn vị do tôi trực tiếp chỉ huy đánh Mỹ, sau đó là đánh quân Pol Pot cũng cho thấy điều đó.

Có lần lực lượng của chúng tôi chỉ có ba tiểu đoàn mà bị tới 11 tiểu đoàn của Pol Pot bao vây. Nhưng nhờ lực lượng tinh nhuệ, gan góc, chúng tôi vẫn đẩy lùi, sau đó thắng kẻ địch. Tháng 5-1975, khi chúng tôi cơ động từ Vĩnh Long ra Phú Quốc đánh đuổi quân Pol Pot bất ngờ xâm lược các đảo Hòn Ông, Hòn Bà cũng vậy. Thiếu thốn đến mức phải dùng tàu “há mồm” của quân đội Sài Gòn để lại, lính lái tàu chế độ cũ cũng sợ vì ta mang tàu sông cho vượt biển đi chiến đấu, hỏa lực không mạnh bằng quân Pol Pot... Nhưng cuối cùng chúng tôi vẫn chiến thắng nhờ sự gan dạ, táo bạo, đánh theo cách đánh của riêng mình, không theo sách vở nào cả.

Khu kinh tế quốc phòng nơi biển đảo?

* Ông là người khởi xướng xây dựng các khu kinh tế quốc phòng nhằm thắp sáng các vùng biên cương từng nghèo khó, bất ổn. Hiện nay có thể vận dụng để xây dựng, bảo vệ biển?

- Có thể tiếp tục thực hiện. Ví dụ như từ việc ngày trước ở Quân khu 3, là khu vực có tới hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ khác nhau, trước và sau thời tôi làm tư lệnh quân khu đã cố gắng củng cố hệ thống phòng thủ tuyến đảo đông bắc vững chắc kết hợp với việc đưa dân ra sinh sống, giúp dân làm ăn.

Muốn đưa dân ra thì phải có đường sá, hạ tầng, làm ăn có tốt, dân có giàu thì người ta mới ra. Lo hạ tầng rồi phải lo đầu vào đầu ra kinh tế nữa. Nếu áp dụng mô hình khu kinh tế quốc phòng cho biển đảo, phải tiếp tục có chiến lược đầu tư lớn hơn.

Mặc dù hiện nay ta đã có các đoàn đánh bắt, nuôi trồng hải sản thuộc bộ đội hải quân, vừa khai thác vừa góp phần bảo vệ ngư dân nhưng theo tôi, phát triển chưa tương xứng. Nếu như lớn mạnh hơn, thu hút được nhiều ngư dân vào hoạt động cho các đơn vị đó thì càng tốt hơn...

* Để bảo vệ và xây dựng biển đảo ngày càng giàu đẹp, theo đại tướng, đâu là việc cần làm nhất hiện nay?

- Về phía Nhà nước, việc cần kíp nhất, theo tôi là trên cơ sở luật pháp quốc tế phải sớm giải quyết xong vấn đề phân định chủ quyền đối với thềm lục địa và với các quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa, được Liên Hiệp Quốc công nhận thì đó sẽ là một cơ sở quan trọng để xử lý, ngăn chặn và đi tới chấm dứt những tranh chấp. Còn với người dân, cách bày tỏ lòng yêu nước nếu chỉ dừng ở việc tụ tập, phản đối thì chưa ổn.

Nhìn lại hoạt động này vừa qua, tôi thấy nay vài chục người, mai vài trăm người không có tổ chức thì cũng không giải quyết được vấn đề gì mà chỉ làm căng thẳng thêm tình hình. Giờ là lúc phải đoàn kết, tỉnh táo, chăm lo phát triển kinh tế, lo cho dân là điều quan trọng nhất. Dân có giàu thì nước mới mạnh, bờ có mạnh thì biển mới có chỗ dựa và mới tiến xa ra biển được.
Các tin liên quan:
    >> Thượng tướng, nguyên Thứ trưởng Quốc phòng bàn về TQ và Biển Đông
    >> Hồi ký Trần Quang Cơ Hồ Sơ Tài Liệu - tháng 7.2005 Hồi ức và Suy nghĩ
    Theo NGUYÊN THÀNH - CẦM VĂN KÌNH/Tuổi trẻ

    Thượng tướng, nguyên Thứ trưởng Quốc phòng bàn về TQ và Biển Đông


    (GDVN) – “Cuộc hải chiến Trường Sa năm 1988 với Trung Quốc nhắc lại cho chúng ta thấy tham vọng bá quyền của Trung Quốc đã thể hiện ra bằng hành động xâm phạm chủ quyền chứ không phải chỉ bằng các hành động gây hấn mới đây từ các tàu hải giám của họ”, Thượng tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Văn Rinh nói. 
     
    PV báo Giáo dục Việt Nam đã có buổi phỏng vấn Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ quốc phòng hiện đang là Chủ tịch hội nạn nhân chất độc màu da cam/đioxin Việt Nam về vấn đề này.
     
    “Tôi đã nhiều lần ra Trường Sa, đi tất cả các đảo nổi và đảo chìm. Điều tôi băn khoăn nhất khi ra Trường Sa là về vấn đề bảo đảm phòng thủ cho vùng biên cương này của Tổ quốc. Trường Sa ở xa đất liền nên công tác bảo đảm hậu cần rất khó khăn. 
     
    Đó cũng là lý do, công tác nghiên cứu xây dựng kế hoạch phòng thủ, bảo vệ vùng biển - đảo luôn là một nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan tham mưu tác chiến chiến lược”.
     
     
    Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh (bên phải ảnh)
    Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh (bên phải ảnh)
     
     
    PV: Diễn biến nóng gần đây tại khu vực biển Đông đang khiến nhiều người lo ngại. Ý kiến của Thượng tướng về vấn đề này như thế nào?
     
    Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh: Việc Trung Quốc xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam đã được các cơ quan báo chí lên tiếng kịp thời. Có ba điểm rất đáng ngại, không chỉ vi phạm Công ước luật biển năm 1982, vi phạm Tuyên bố ứng xử biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc mà hành động này của phía Trung Quốc còn trái với nhận thức chung của lãnh đạo cao nhất của Việt Nam – Trung Quốc.
     
    Lãnh đạo cấp cao của hai nước đã thỏa thuận là xây dựng quan hệ hữu nghị giữa hai nước theo phương châm 16 chữ trên tinh thần 4 tốt.
     
    Cũng cần phải nhắc lại, chứng cứ của Trung Quốc đưa ra để chứng tỏ chủ quyền của mình tại hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là không có cơ sở. Bản thân đường lưỡi bò mà họ đưa ra cũng hết sức phi lý  và vi phạm nghiêm trọng công ước luật biển năm 1982.
     
    Nhưng tham vọng bá quyền của Trung Quốc là rất lớn, họ sẽ chẳng chịu bỏ cuộc. 
     
    PV: Vừa qua chủ tịch nước Trương Tấn Sang trong phát biểu với báo giới ngay sau khi đắc cử đã phát biểu: “ Chúng ta là nước nhỏ nên phải dựa vào sức mạnh của tập thể, của cộng đồng, của Công ước luật biển 1982 để bảo vệ chủ quyền biển đảo, vùng đặc quyền kinh tế”. Xin thượng tướng cho biết ý kiến riêng của mình về nguồn sức mạnh Việt Nam hiện nay để giữ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa?
     
    Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh: Chủ tịch nước nói như thế là đúng quan điểm của nhà nước ta.
     
    Bảo vệ chủ quyền đất nước là bảo vệ cả đất liền, vùng biển và vùng trời. Còn sức mạnh Việt Nam là sức mạnh tổng hợp. Vì quân đội ta là quân đội nhân dân, sức mạnh quân đội Việt Nam chính là sức mạnh dân tộc. Trong đó lấy việc xây dựng quân đội làm nòng cốt.  
     
    Nói về vũ khí thì chúng ta không hiện đại hơn Trung Quốc nhưng nói về ý chí dân tộc thì các triều đại Trung Quốc đánh mình mấy nghìn năm nhưng họ vẫn phải thua.
     
    Bên cạnh đó, chúng ta phải làm cho nhân dân thế giới và cả nhân dân Trung Quốc am hiểu hơn về Việt Nam. Muốn làm việc đó thì chỉ có tuyên truyền rộng rãi. Đồng thời phải làm sao để nhân dân Việt Nam, nhân dân thế giới kể cả nhân dân Trung Quốc am hiểu hơn về luật pháp quốc tế về biển. 
     
    Ngày trước chiến tranh chống Mỹ cũng thế, chúng ta thắng họ là một phần nhờ vào nhân dân Mỹ hiểu Việt Nam, hiểu được những gì mà nhà cầm quyền Mỹ đang làm ở Việt Nam là phi nghĩa.
     
    Một phần rất lớn nữa chính là sức mạnh thời đại. Hiện nay xu hướng nhân dân các nước trên thế giới đều chống chiến tranh và bảo vệ hòa bình, đoàn kết, cùng phát triển. 
     

    “Liên quan đến sự kiện xảy ra tại Trường Sa vào năm 1988, việc làm của phía Trung Quốc 1988 gây cho Việt Nam những tổn thất đáng kể. Họ bắn tàu của ta khiến cho 64 chiến sỹ bị hy sinh và sau đó trả lại tự do cho 9 người, 31 người hiện vẫn mất tích.
     
    Bộ quốc phòng Việt Nam đã yêu cầu phía Trung Quốc giải quyết vấn đề này, để hải quân của chúng ta đến khu vực đó tìm kiếm hài cốt của các chiến sỹ đưa về đất liền nhưng phía Trung Quốc bao lâu nay vẫn cứ lờ đi.
     
    Tôi nghĩ việc này cần phải được giải quyết vì nó hoàn toàn chính đáng. Sau khi  chiến tranh kháng chiến chống Mỹ kết thúc, phía ta vẫn tỏ thiện chí trong việc cùng với phía Mỹ tìm kiếm hài cốt của các binh sỹ Mỹ”.
     
    Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh
     
    Ba sức mạnh: sức mạnh dân tộc, sức mạnh dư luận, sức mạnh thời đại làm nên sức mạnh tổng hợp để chúng ta bảo vệ đất nước trong đó có việc bảo vệ các vùng hải đảo thuộc chủ quyền của ta.
     
    Xuyên suốt lịch sử Việt Nam là các cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập chủ quyền. Hơn ai hết, nhân dân ta muốn tránh chiến tranh và muốn duy trì ổn định. Quan điểm nhất quán của chúng ta là mình không đánh trước. 
     
    Việt Nam không bao giờ dùng sức mạnh quân sự đi đánh một nước khác. Nhưng nếu có nước nào xâm phạm chủ quyền quốc gia của Việt Nam thì dân tộc này sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ từng thước đất, thước biển của quê hương.
     
    PV: Đi đôi với phát triển kinh tế là nhiệm vụ tăng cường sức mạnh quân sự, củng cố quốc phòng. Trước tình hình mới, nhiều người dân có nguyện vọng xây dựng quỹ quốc phòng để quân đội trang bị vũ khí hiện đại nhiều hơn. Thượng tướng nghĩ sao về đề nghị này?
     
    Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh: Tôi biết gần đây một số người dân có ý kiến góp tiền để xây dựng quỹ quốc phòng để mua thêm vũ khí và trang thiết bị hiện đại cho quân đội. Đó là nguyện vọng chính đáng của người dân. Hiện nay chúng ta cũng đã có quỹ Vì Trường Sa thân yêu.
     
    Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng tiền của người dân hay tiền của nhà nước thì đều là nguồn tiền từ đất nước. Mà các vũ khí quân sự thì lại rất đắt, một chiếc tàu ngầm đã có giá hàng trăm triệu đô la. 
     
    Thế cho nên, cá nhân tôi mong mỗi người dân hãy đầu tư phát triển kinh tế để xây dựng đất nước. Đó là nhiệm vụ trọng tâm hiện nay. Khi kinh tế mạnh thì sức mạnh quốc phòng sẽ mạnh theo.
     
    Còn mới đây năm 2009, chúng ta có kí hợp đồng mua 6 tàu ngầm lớp kilo 686 chạy dầu diezel-điện thuộc dự án 636 và từ năm 2014, Nga sẽ bắt đầu chuyển giao các tàu ngầm này cho Hải quân Việt Nam. Phải nói rằng đây là các tàu ngầm nếu so với các tàu ngầm trên thế giới hiện nay thì là loại nhỏ và thuộc thế hệ cũ. Loại này chỉ dùng để huấn luyện là chính.
     
    Và con số 6 so với số lượng tàu ngầm của các nước thì vẫn còn quá ít. Mà vùng biển của chúng ta lại rất rộng. Chính vì thế trong thời gian tới chúng ta phải trang bị vũ khí hiện đại hơn cho hải quân, tăng cường các tầu tuần tra trên biển. 
     
    PV: Thượng tướng có thể nói gì về việc hiện đại hóa hải quân của quân ta hiện nay?
     
    Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh: Việc hiện đại hóa hải quân nói riêng và quân đội nói chung đòi hỏi từng bước và phụ thuộc vào khả năng kinh tế của đất nước. Hiện nay chúng ta đang từng ngày tăng cường năng lực tác chiến cho cả hải quân trên biển, lực lượng chi viện trên bờ cho biển và lực lượng trên trên không. 
     
    PV: Theo Thượng tướng, để xây dựng vững chắc lực lượng phòng thủ, bảo vệ biển đảo thì điều cần làm nhất của chúng ta hiện nay là gì?
     
    Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh: Điều quan trọng nhất là mình phải có sức mạnh để giữ. Mà sức mạnh đó là của dân tộc, một sức mạnh tổng hợp. Đồng thời phải bảo đảm cho lực lượng giữ phòng thủ trên các đảo giữ vững chủ quyền các vùng biển đảo của mình. So với ngày trước thì lực lượng của ta đã khá hơn nhiều rồi.
     
    Tôi tin nhà nước ta sẽ bảo đảm được điều đó!
    Theo BAOMOI

    Chiến cuộc ngoại giao



    Cựu thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ (ảnh VietnamNet)
    Ông Trần Quang Cơ từng được trao trách nhiệm giải quyết vấn đề Campuchia
       Các thập kỷ 1970-1980, trước khi chiến sự nổ ra trên biên giới Trung-Việt, là thời kỳ vô cùng khó khăn của ngành ngoại giao Việt Nam.
    Vừa mới bước ra khỏi cuộc chiến chống Mỹ, Việt Nam lâm vào tình trạng ngày càng cô lập, thiếu vắng đồng minh.

        Cựu thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ là người trực tiếp tham gia nỗ lực ngoại giao của Việt Nam trong suốt thời kỳ đó.
    Đài BBC đã có cuộc nói chuyện với ông về bối cảnh cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung:

    Ông Trần Quang Cơ: Căn nguyên (của cuộc chiến Việt - Trung) là xung quanh vấn đề quyền lợi nước lớn, liên quan tới vấn đề Đông Dương. Nói sát ra, thì nó dính tới cuộc chiến ở biên giới Tây Nam.

       Tháng Giêng 1979, Việt Nam giải phóng Phnom Penh, thì sau đó xảy ra sự kiện tháng Hai 1979. Lúc đó Trung Quốc cũng tuyên bố rõ ràng là 'dạy cho Việt Nam một bài học', và cụ thể là hòng cứu nguy cho Pol Pot.
    Khi Pol Pot vào các tỉnh biên giới phía Nam, giết hại nhiều người thì việc đầu tiên Việt Nam phải làm là bảo vệ biên giới, bảo vệ người dân của mình. Dân Việt Nam vừa mới hoàn hồn, vừa thoát khỏi cuộc chiến tranh với Mỹ xâm lược, năm 1975 giải phóng đất nước, thì Pol Pot đã có chủ trương gây chiến và cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
    Nhất định hành động như vậy phải có tác động của nước lớn rồi. Thí dụ, vũ khí lấy đâu ra? Bao nhiêu vũ khí ta bắt được, đều là từ Trung Quốc.
    BBC: Việt Nam và Trung Quốc là đồng minh trong cuộc chiến chống Mỹ. Vậy thưa ông, bắt đầu từ bao giờ quan hệ đó bắt đầu xấu đi?
    Ông Trần Quang Cơ: Nói chung quan hệ hai bên cứ xấu đi dần dần. Thực tế, từ năm 1972, khi Kissinger và Nixon sang Trung Quốc, đàm phán với Bắc Kinh, thì quan hệ Mỹ - Trung đi vào hòa hoãn.
    Thời bấy giờ thế giới tuy chỉ có hai cực, nhưng với ba siêu cường: Mỹ, Trung Quốc, Liên Xô, tình thế bắt đầu hòa hoãn. Liên Xô dưới quyền Gorbachev chủ trương muốn hòa hoãn với Trung Quốc vì lợi ích của Liên Xô, để cải thiện tình hình trong nước.
     Các nước lớn họ có tính toán của riêng họ, nhưng tình hình quan hệ chiến lược giữa ba nước lớn bất lợi cho Việt Nam.

    Các nước lớn họ có tính toán của riêng họ, nhưng tình hình quan hệ chiến lược giữa ba nước lớn bất lợi cho Việt Nam.

       Liên Xô là đồng minh duy nhất còn sót lại của ta, với Trung Quốc thì quan hệ xấu đi, còn Mỹ thì chưa hết dư âm của chiến tranh, mà lần đầu Mỹ bị thua như vậy.
    Đối với vấn đề Campuchia, thì các nước nhất là năm quốc gia thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thiên về lý luận là Việt Nam xâm lược Campuchia mà lờ đi cuộc diệt chủng của Pol Pot.
    THÊM BẠN BỚT THÙ
    BBC: Lúc đó chắc là một giai đoạn vô cùng khó khăn cho ngành ngoại giao Việt Nam, thưa ông?
    Ông Trần Quang Cơ: Đúng là rất khó khăn. Bởi vì khi đó vừa xong chiến tranh chống Mỹ thì lại xảy ra cuộc chiến Campuchia, mà Việt Nam lại đang rất cần sớm khôi phục hòa bình, để phát triển kinh tế.
    Tìm giải pháp rút khỏi Campuchia mà vẫn bảo vệ chính nghĩa của mình là một điều vô cùng khó.
    Việt Nam chịu sức ép rất lớn từ các nước Hội đồng Bảo an, mà LHQ lúc ấy không như LHQ bây giờ, lúc ấy phụ thuộc nhiều vào các nước thường trực, nhất là Mỹ.

    BBC: Bây giờ nghĩ lại, ông thấy lúc đó có những cơ hội gì bị bỏ lỡ, có những điều gì Việt Nam có thể làm khác không ạ?
    Ông Trần Quang Cơ: Tôi thấy điều mình có thể làm khác, là phải đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế sớm. Trước Đại hội Đổi mới (năm 1986), Việt Nam đã quá phụ thuộc vào ý thức hệ mà không đa phương hóa được quan hệ.
    Lính Trung Quốc vào Việt Nam
     Trong cái thế anh nằm ngay cạnh nước lớn, nước khổng lồ, mà không có bạn thì anh sẽ bị ép.

    Lời Cụ Hồ nói là thêm bạn bớt thù, thời kỳ đó chúng ta không thực hiện được. Mà chúng ta lại bớt bạn thêm thù.
    Một nước nhỏ hay trung bình như Việt Nam thì càng nhiều bạn càng tốt. Trong cái thế anh nằm ngay cạnh nước lớn, nước khổng lồ, mà không có bạn thì anh sẽ bị ép. Tôi mà là nước lớn tôi cũng ép.
    Mình thì chỉ loanh quanh mấy nước xã hội chủ nghĩa, anh cả Liên Xô, anh hai Trung Quốc.
    Khi đó Mỹ đã chìa tay với mình, đặt vấn đề bình thường hóa vô điều kiện thì Việt Nam lại đòi bình thường hóa có điều kiện. Sau đồng ý bình thường hóa vô điều kiện thì đã lỡ thời cơ. Họ đã bình thường hóa với Trung Quốc và quên Việt Nam rồi.
    Một là không bình thường hóa với Mỹ sớm. Hai là không sớm gia nhập ASEAN. Lúc ấy ASEAN rất muốn Việt Nam vào khối vì họ nể sức mạnh mình đánh Mỹ. Nhưng mình lại không chơi...
    Thành ra là chậm trễ tới cả mười năm.
    Bên cạnh một nước lớn, Việt Nam phải chịu sức ép là vì ở khu vực thì anh lẻ loi, đối đầu, cứ khư khư ba nước Đông Dương bé xíu. Trên thế giới thì anh còn có mỗi Liên Xô thôi, mà Liên Xô lúc ấy cũng đã bắt đầu ngả cờ rồi.

    ĐA DẠNG HÓA
    BBC: Thưa ông, vào thời điểm tháng Hai 1979, ông đang ở đâu ạ?
    Ông Trần Quang Cơ: Tôi vừa ở New York về, đàm phán với Mỹ hỏng và Đặng Tiểu Bình vừa sang Mỹ.
    BBC: Khi nghe tin Trung Quốc tấn công Việt Nam, suy nghĩ của ông là gì ạ?
    Ông Trần Quang Cơ:... (im lặng)... Bất lực. Nhưng không ngạc nhiên.
    Điều đó là tất nhiên thôi, sống ở môi trường đó mình phải lường trước được. Đáng lẽ chiến lược của mình phải là thêm bạn bớt thù để mạnh lên. Mình mạnh lên thì họ mới nể mình.
    Mình càng ít bạn thì họ càng bắt nạt, thế thôi. Cũng giống như trẻ con ngoài phố ấy.
    BBC: Thưa bây giờ ông nghĩ Việt Nam đã theo được đường hướng đa phương hóa đó chưa ạ?
    Ông Trần Quang Cơ: Tôi thấy Việt Nam đang theo đường hướng đó khá tốt, quan hệ được với nhiều nước và khá đa dạng. Ví dụ như là 'chơi' với cả Israel và cả Palestine.

    BBC: Còn quan hệ với Trung Quốc thì sao ạ? Có đánh giá là quan hệ hai bên đang tốt nhất từ trước tới nay, ông có đồng ý với ý kiến đó không?
    Ông Trần Quang Cơ: Cái đó thì tùy ở vị trí từng người mà đánh giá. Tôi thấy quan hệ hiện giờ... tạm được (cười).
    Ông Trần Quang Cơ, sinh năm 1920, phục vụ trong ngành ngoại giao 44 năm cho tới khi ông về hưu năm 1997. Trong thời gian đó, ông từng là Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao.
    Tháng Bảy 1991, ông xin không nhận chức bộ trưởng Ngoại giao thay thế ông Nguyễn Cơ Thạch và cuối năm 1993, ông tự ý xin rút khỏi Ban chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam.

    (Kỳ 2) Hồi ký Trần Quang Cơ Hồ Sơ Tài Liệu - tháng 7.2005 Hồi ức và Suy nghĩ



    (Kỳ 2)

    "Đây là những trang Hồi ký của Nguyên thứ trưởng Bộ ngoại giao Nước CHXHCN Việt Nam : Trần Quang Cơ . Trong những trang Hồi ký của mình ông đã đề cập đến rất nhiều vấn đề mà từ trước tới nay luôn được coi là "nhạy cảm" và "tối mật" của ngoại giao Việt Nam . Chính vì trong nội dung có đề cập đến 1 số vấn đề mang tính chất "nhạy cảm" vì thế BẠN NÀO KHÔNG MUỐN THÌ ĐỪNG ĐỌC . Từng dòng Hồi ký là từng sự sáng tỏ về những gì mà lịch sử đã xảy ra đối với ngành Ngoại giao Việt Nam"
    NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TÌNH HÌNH QUỐC TẾ
    VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CÒN CÓ TRANH LUẬN
    1. Về tình hình quốc tế: do tác động của cách mạng KHKT, khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia ngày càng lớn. Thách thức lớn nhất của nước ta là nguy cơ tụt hậu về kinh tế, yếu tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp của quốc gia hiện nay chủ yếu là kinh tế.

    a. Có tranh luận: nguy cơ diễn biến hoà bình hơn thách thức tụt hậu về kinh tế. Từ đó có ý kiến cho của quốc gia là sức mạnh an ninh quốc phòng là chủ yếu chứ không phải chủ yếu là sức mạnh kinh tế – xã hội trong mỗi nước.

    b. Về mâu thuẫn thời đại: nhiều ý kiến cho rằng những biến đổi lớn trong cục diện thế giới đã làm thay thứ tự quan trọng cuả các mâu thuẫn lớn, mâu thuẫn chính chi phối quan hệ quốc tế ngày nay không còn là mâu thuẫn Đông - Tây mà là mẫu thuẫn Tây – Tây. Nhưng có ý kiến cho mâu thuẫn Tây – Tây vẫn là quan trọng.

    c. Về tập hợp lực lượng: ý kiến chung chủ trương đa dạng hoá quan hệ. Nhưng còn tranh luận là tập hợp lực lượng theo ý thức hệ hay theo lợi ích dân tộc, hoặc nói đa dạng hoá nhưng nhấn ý thức hệ, cần tìm đồng minh chiến lược.

    2. Về ý đồ và chính sách của các nước lớn và ASEAN:

    Mỹ: Về câu hỏi “Cục diện thế giới mới tạo cho Mỹ thời cơ hay thách thức?” (Mỹ mạnh lên hay yếu đi)

    Có ý kiến cho rằng Mỹ đang tranh thủ lợi thế để thiết lập trật tự một cục do Mỹ chi phối, ý kiến khác cho rằng đang hình thành “trật tự đa cực”, “đa trung tâm”, hay trật tự thế giới đang trong quá trình hình thành, đang có sự cân bằng giữa các nước lớn.

    Mục tiêu chiến lược toàn cầu của Mỹ là xoá sạch các nước XHCN còn lại hay là kiềm chế các trung tâm kinh tế tư bản khác?

    Lý giải hiện tượng các nước khu vực mong muốn Mỹ tiếp tục có mặt sẽ giúp ổn định khu vực, còn ViệtNam cho Mỹ là mối đe doạ nguy hiểm nhất.

    Trung Quốc:Vì sao các nước khu vực đều lo ngại Trung Quốc còn Việt Nam đặt hy vọng vào Trung Quốc (đồng minh chiến lược)?

    Mặt bành trướng bá quyền của Trung Quốc là chính hay mặt XHCN là chính? Thực chất của “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc”?

    Về quan hệ Mỹ - Trung Quốc (liên quan đến Việt Nam):

    Dư luận chung: Mỹ lo kiềm chế Trung Quốc ở châu Á - Thái Bình Dương và mong Việt Nam góp vào đó. Nhưng có ý kiến cho Mỹ và Trung Quốc thoả hiệp bất lợi cho Việt Nam. Vì Mỹ dặt ưu tiên quan hệ với Trung Quốc cao hơn nên Mỹ sẵn sàng khi Việt Nam cho ưu tiên đó.

    Đánh giá về ASEAN:

    Có ý kiến cho ASEAN là tổ chức có tiếng nói, có sức sống, biết lợi dụng mâu thuẫn các nước lớn và lợi ích quốc gia vì lợi ích nhóm nước khu vực mình. Việt Nam cần sớm gia nhập tổ chức này.

    3. Về chiến lược đối ngoại của ta:

    Vị thế của Việt Nam có gì khác trước?

    Đe doạ chính đối với an ninh và phát triển của ta nay là gì? Nguy cơ tụt hậu về kinh tế hay nguy cơ diễn biến hoà bình là đe doạ chính?

    Biện pháp đối phó với đe doạ và thực hiện mục tiêu của ta? (“đồng minh chiến lược”, “quan hệ đặc biệt”).

    Tập trung phát triển kinh tế có phải là lối thoát duy nhất để củng cố ổn định, ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội trong nước và nâng cao vị thế và vai trò nước ta trên quốc tế, đối phó “diễn biến hoà bình” có hiệu quả nhất hay không? Ta đã đặt ưu tiên cao nhất cho phát triển kinh tế hay chưa?

    Trong thực tế đối ngoại, thường có sự lúng túng ngập ngừng về ưu tiên trong các mối quan hệ sau:

    + giữa phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh chính trị (giữa nguy cơ tụt hậu về kinh tế và nguy cơ chệch hướng XHCN, nguy cơ bị diễn biến hoà bình).

    + Lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế. Tập hợp lực lượng và phân biệt bạn – thù theo quan điểm ý thức hệ hay theo lợi ích dân tộc.

    + Độc lập chủ quyền và hợp tác quốc tế. Hoà nhập cộng đồng thế giới. (2/1995)
    “… ( Trung Quốc) .. đã xác định quan hệ với ta là “thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đấu” (thân nhưng không gần, sơ nhưng không xa, đấu tranh nhưng không đánh nhau). (Trung Quốc)... luôn luôn lấy thế nước lớn để lấn chiếm lãnh thổ lãnh hải ta, và hiểm độc nhất là không ngừng tác động vào nội bộ ta…”
    Chương 18
    ĐẠI HỘI VII VÀ CÁI GIÁ PHẢI TRẢ
    CHO VIỆC BÌNH THƯỜNG HOÁ QUAN HỆ VỚI TRUNG QUỐC
    Từ 17 đến 27.6.91 Đảng Cộng sản Việt Nam họp Đại hội lần thứ VII đưa lại nhiều thay đổi quan trọng về nhân sự: Đỗ Mười thay Nguyễn Văn Linh làm TBT; Lê Đức Anh nay nghiễm nhiên giữ vị trí thứ 2 trong Đảng, Uỷ viên thường trực BCT kiêm bí thư trung ương phụ trách cả 3 khối quốc phòng – an ninh – ngoại giao và lên chức Chủ tịch nước. Võ Văn Kiệt được giới thiệu với Nhà nước cử làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Đào Duy Tùng thường trực Ban bí thư. Bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng nắm bộ phận thường trực của Bộ Chính trị và của Ban Bí thư. Đại tướng Võ Nguyên Giáp bị gạt ra khỏi chức uỷ viên Trung ương. Còn Nguyễn Cơ Thạch bị bật ra khỏi Bộ Chính trị và chuẩn bị thôi chức Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao... (thực ra những thay đổi về nhân sự trong BCT đã được quyết định từ tháng 5 và Trung Quốc đã biết). Dư luận quốc tế xôn xao cho rằng Nguyễn Cơ Thạch là “vật tế thần” trong việc Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng đó mới chỉ là một cách nói đơn giản vì vấn đề không chỉ là bình thường hoá quan hệ mà là phụ thuộc hoá quan hệ.

    Trước hết vấn đề đặt ra là ai sẽ thay anh Thạch giữ chức bộ trưởng ngoại giao ? Từ đầu tháng 7, tôi đã nhiều lần được triệu tập lên gặp TBT Đỗ Mười và Trưởng ban tổ chức trung ương Lê Phước Thọ (người thay Nguyễn Đức Tâm), để được thông báo và đả thông về dự định đưa tôi làm Bộ trưởng ngoại giao. Lần gặp sáng ngày 10.7.91, thấy tôi vẫn từ chối, Đỗ Mười đã hiểu lầm tưởng tôi không nhận vì chưa được vào BCT như Bùi Thiện Ngộ - người thay Mai Chí Thọ làm Bộ trưởng Bộ Nội Vụ - nên hứa sẽ giải quyết chuyện đó sau khi nhận chức Bộ trưởng ngoại giao. Tôi nói chỉ vì lý do “sức khoẻ” mà xin không nhận: “45 năm nay tôi liên tục công tác, cố gắng làm tốt các công việc được giao, không từ nan. Song lần này không thể nhận. Tôi chỉ có nguyện vọng và làm nốt công việc thứ trưởng ngoại giao. Đề nghị các anh quyết định theo phương án chúng tôi đề nghị ngày hôm qua: cử anh Vũ Oanh hay anh Vũ Khoan. Nhân đây tôi xin phản ảnh tư tưởng chung của anh em cán bộ nhân viên Bộ Ngoại giao là có sự đối xử chưa công bằng với Ngoại giao”.

    Vì sao tôi được người ta chọn để thay Nguyễn Cơ Thạch tuy biết rõ tôi có cùng quan điểm về chính trị đối ngoại với anh Thạch ? Tôi nghĩ có 2 lý do: một là, che đậy ý nghĩa chính trị của việc [thay thế anh]52 Nguyễn Cơ Thạch; hai là, cơ chế mới về đối ngoại sau Đại hội VII có khả năng vô hiệu hoá hoàn toàn mới chủ trương và hành động sai khác với quan điểm của mấy vị trong Ban Thường trực BCT mới.

    Sau khi tôi được miễn, đã có một cuộc vânh động khá sôi nổi quanh vấn đề này. Những tên tuổi như Vũ Oanh, Hồng Hà, Hoàng Bích Sơn, Vũ Khoan, Nguyên Dy Niên… được nói tới. Cuối cùng Nguyễn Mạnh Cầm, lúc đó đang là Đại sứ ta tại Liên Xô được chọn, mặc dù khi ấy ânh còn rất lưỡng lự.

    Sau Đại hội VII, mọi vấn đề quan trọng về đối ngoại của Nhà nước đều do Hồng Hà, bí thư TƯ, phụ trách đối ngoại, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lê Đức Anh và tất nhiên được sự tán thưởng của TBT Đỗ Mười, quyết định. Những phần công việc xưa nay vốn do Bộ Ngoại giao đảm nhiệm nay đều do Hồng Hà và Ban Đối ngoại chủ trì. Một thí dụ điển hình về vì ý đồ cá nhân họ sẵn sàng bỏ qua danh dự và quốc thể: Ngày 5.8.91, tại cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng, Hồng Hà tuyên bố: ‘Từ nay trong quan hệ với Trung Quốc các ngành cứ tập trung ở chỗ anh Trương Đức Duy (Đại sứ Trung Quốc), không cần qua sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh’. Lê Đức Anh cho biết khi ở Trung Quốc, Phó ban Đối ngoại Trung Quốc Chu Lương có đề nghị: vì lý do kỹ thuật, quan hệ giữa hai Đảng xin làm qua Trương Đức Duy. Hôm sau, Hồng Hà với tư cách Trưởng ban Đối ngoại tiếp Đại sứ Campuchia Ouch Borith, đã thông báo: “Theo sự phân công của BCT Việt Nam, từ nay đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Hồng Hà sẽ phụ trách việc thảo luận giải pháp Campuchia và các vấn đề liên quan. Nếu lãnh đạo Campuchia muốn bàn các vấn đề trên thì đề nghị quan hệ và thảo luận trực tiếp với hai đồng chí đó.

    Ngày 9.7.91, vừa được bầu làm TBT, Đỗ Mười gặp đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy tỏ ý muốn cử đặc phái viên đi Bắc Kinh để thông báo về Đại hội VII và trao đổi về quan hệ giữa hai nước. Trước đó ít ngày–ngày 11.6.91 – Bộ Ngoại Giao ta cũng đã gặp đại sứ Trung Quốc đề nghị mở lại đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao hai nước. Ngày 17.7, Trung Quốc trả lời đồng ý gặp cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh từ 5.8 đến 10.8. Hai ngày sau, Trung Quốc trả lời đồng ý việc ta cử đặc phái viên gặp lãnh đạo Trung Quốc, nhưng lại sắp xếp cuộc gặp đặc phái viên Đảng trước cuộc gặp thứ trưởng ngoại giao… Việc làm trên cho thấy một mặt Trung Quốc muốn gặp ta ở cả hai cấp, mặt khác muốn dùng những thoả thuận với cấp đặc phái viên để ép ta trong cuộc gặp cấp thứ trưởng ngoại giao. Để đề cao công việc này, phía Trung Quốc đã đề nghị thay chữ “đặc phái viên” thành “đoàn Đại diện đặc biệt của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam” tuy Đoàn chỉ có 2 thành viên là Lê Đức Anh và Hồng Hà. Hồng Hà lúc đó là bí thư TƯ, phụ trách đối ngoại. Phụ tá đoàn là Trịnh Ngọc Thái, phó ban Đối ngoại của Đảng. Tôi nhớ khi đó Bộ Ngoại giao có đề nghị có một thứ trưởng ngoại giao là uỷ viên TƯ đi với đoàn để nắm tình hình vận dụng vào cuộc đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao ngay sau đó, nhưng đề nghị không được chấp nhận. Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Đặng Nghiêm Hoành cũng không được tham dự các hoạt động của đoàn, trong khi đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, Trương Đức Duy lại có mặt trong mọi hoạt động chính thức của đoàn tại Trung Quốc.

    Ngày 28.7.91, đoàn đã đến Bắc Kinh và trong mấy ngày sau đó đã gặp Kiều Thạch, Lý Bằng, Giang Trạch Dân thông báo khá chi tiết về Đại hội VII. Thông báo cả những ý kiến khác nhau quá trình thảo luận, tranh luận và việc biểu quyết những vấn đề quan trọng trong Đại hội, và cơ cấu nhân sự của Ban Chấp hành TƯ mới..., Giang Trạch Dân và Lý Bằng tỏ ra quan tâm đến việc Việt Nam sẽ có ngoại trưởng mới (thay Nguyễn Cơ Thạch) trong kỳ họp Quốc hội tháng 8.91, Giang tỏ ý hài lòng: “Từ đáy lòng mình, tôi hết sức hoan nghênh kết quả Đại hội VII của các đồng chí Việt Nam”.

    Đặc biệt mặc dù chuyến đi có mục đích gặp lãnh đạo Trung Quốc thông báo về Đại hội VII và bàn quan hệ hai nước, nhưng Lê Đức Anh và Hồng Hà đã chủ động xin gặp Từ Đôn Tín tới 2 lần, chiều 29.7 và tối 31.7 để tạ lỗi (?). Mở đầu cuộc gặp chiều 29.7, Lê Đức Anh đã nói: “Năm ngoái khi đồng chí Từ Đôn Tín sang Việt Nam đã xảy ra một số trục trặc không hay lắm do phía chúng tôi gây ra (!). Đồng chí Nguyễn Văn Linh và chúng tôi khi biết việc này, chúng tôi không vui lắm. Hôm nay gặp đồng chí, tôi nói tình cảm của đồng chí Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và của tôi... Tình hình trục trặc trong quan hệ là một việc đau lòng, nhất là giữa những người cộng sản. Khúc nhạc cũ đã qua rồi, mong các đồng chí yên tâm”. Còn Từ thì cũng mượn dịp này để than phiền về đại sứ Đặng Ngiêm Hoành: “Một năm nay đồng chí ấy không gặp tôi, trừ khi gặp ở các cuộc chiêu đãi. Đây là lần đầu tiên tôi gặp đồng chí Hoành kể từ tháng 6 năm ngoái” (sự thực là phía Trung Quốc đã có thành kiến với anh Hoành từ trong cuộc đàm phán tháng 6.90 ở Hà Nội). Từ không quên nhắc đến điều kiện không thể thiếu có thể bình thường hoá quan hệ với Việt Nam: “Tôi rất hoan nghênh đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Hồng Hà là từ nay không nói diệt chủng nữa. Khi về Hà Nội nếu gặp Campuchia đề nghị các đồng chí cũng nói ý này... Nếu các đồng chí lãnh đạo Việt Nam sang Trung Quốc mà cái đuôi Campuchia vẫn còn thì chúng tôi khó nói với nhân dân. Mong vấn đề Campuchia được giải quyết thì khi bình thường hoá quan hệ chúng tôi có thể ăn nói với nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới”.

    Để dọn đường cho cuộc gặp cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh tháng 8.91, tối 31.7 Hồng Hà đảm bảo với Từ Đôn Tín: “Đồng chí Lê Đức Anh và tôi sẽ làm việc trực tiếp với thứ trưởng Nguyễn Dy Niên (người được chỉ định đi đàm phán với Trung Quốc chỉ vì chưa có “tiền sử” với Trung Quốc) trước khi đồng chí ấy đi Trung Quốc. Chúng tôi phải báo cáo với BCT để có ý kiến chỉ đạo không những về nội dung mà cả về tinh thần và thái độ làm việc. Tinh thần của chúng tôi là phấn đấu làm cho cuộc gặp thành công”. Sau khi đã cam kết từ nay không nói đến vấn đề diệt chủng nữa, Hồng Hà hỏi Từ: “Tôi muốn hỏi đồng chí ngoài vấn đề diệt chủng, còn hai vấn đề gai góc là vấn đề quân đội các bên Campuchia và vai trò LHQ thì phương hướng giải quyết nên thế nào, để chúng tôi có thể góp phần làm cho cuộc gặp thứ trưởng Việt – Trung ở Bắc Kinh sắp tới đạt kết quả tốt”. Xin ý kiến đối phương và hướng giải quyết vấn đề để đàm phán trước khi đàm phán, thật là chuyện có một không hai trong lịch sử đối ngoại !

    Sau khi ở Trung Quốc về, ngày 4.8.91, Lê Đức Anh và Hồng Hà gặp tôi và Nguyễn Dy Niên tại Văn phòng TƯ Đảng để chuẩn bị cho Niên đi đàm phán với Trung Quốc. Sau khi anh Niên đọc bản đề án của Bộ Ngoại Giao, tôi nói: “Anh Hoành (đại sứ ta ở Trung Quốc) vừa điện về. Phía Trung Quốc thông báo có 3 buổi làm việc nhưng họ nói có thể làm một buổi là xong. Chắc chắn Từ Đôn Tín sẽ đưa văn bản buộc chúng ta phải thoả thuận. Nếu ta nhận, họ sẽ xì ra cho các nước P5, ASEAN và bạn Campuchia. Ta sẽ ở vào thế phản bội đồng minh, phản bội bạn bè. Nếu ta đòi sửa văn bản của Trung Quốc thì sẽ không ra được văn bản, đàm phán sẽ thất bại. Chúng tôi đã xem lại biên bản thấy Trung Quốc gắn rất chặt vấn đề Campuchia với việc bình thường hoá quan hệ, vẫn coi Campuchia là điều kiện. Trung Quốc rất khôn, khi gặp cấp cao chỉ tập trung vào vấn đề quan hệ hai nước, còn cái xương để lại. Gặm cái xương này, chúng ta phải giải quyết vấn đề có tính nguyên tắc. Ta quyết tâm bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc nhưng không được phá quan hệ với Campuchia và không được để thế giới thay anh Việt Nam là người tráo trở”.

    Biết tôi quá gai góc, không chịu chấp nhận ý đồ thoả hiệp vô nguyên tắc với Trung Quốc, Lê Đức Anh và Hồng Hà chỉ nói chung chung về chuyến đi Bắc Kinh vừa qua. Hồng Hà nói: “Tinh thần tôi nắm được là ý Trương Đức Duy và Từ Đôn Tín đều lo cuộc gặp thứ trưởng thất bại. Từ có hỏi: Không biết đồng chí thứ trưởng nào gặp tôi có nắm được tinh thần này không ?” Tôi liền bảo: “Như vậy càng rõ là họ có yêu cầu cao nên họ sợ ta không thể chấp nhận được”. Hồng Hà nói: “Tôi hiểu họ muốn bình thường hoá quan hệ là chính nên họ lo”. Tôi đáp: “Về mặt này thì phải nói là Việt Nam lo hơn vì Việt Nam mót bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc hơn”. Vào cuối buổi họp, Hồng Hà nói: “Chuyến đi của anh Niên là thuận lợi, sau chuyến đi của anh Lê Đức Anh. Anh Niên cũng là nhân vật mới, không có “tiền sử”. Khi nhắc đến tháng 6.90 họ rất cay cú”. Lê Đức Anh thêm vào: “Sau tháng 6.90 lại có phát biểu với báo chí của hai bên nên càng tích tụ thêm, găng thêm”. (ý nói đến lần sau đàm phán tháng 6.90, giữa tôi và Từ Đôn Tín có sự phê phán nhau trên báo chí). Và đến chiều, khi họp Thường trực BCT bàn về việc đàm phán với Trung Quốc họ chỉ triệu tập anh Niên, không triệu tập tôi.

    Được biết trong cuộc họp này TBT Đỗ Mười đã khẳng định là không nên vì vấn đề Campuchia mà cản trở việc bình thường hoá quan hệ của ta với Trung Quốc. Về vấn đề Campuchia, họ chỉ thị cho anh Niên thoả thuận với phía TQ:

    1. Không nói về vấn đề diệt chủng. Lê Đức Anh nói phải dứt khoát thôi vấn đề diệt chủng. Và TBT Đỗ Mười nhấn thêm: “Nếu nói vấn đề diệt chủng từ là đồng minh với Mỹ chống Trung Quốc” (!)

    2. Nâng cao vai trò SNC Campuchia, hạ thấp vai trò LHQ.

    3. giảm quan các bên Campuchia 50%

    Để đảm bảo cuộc đàm phán không đi chệch khỏi quỹ đạo đã dàn xếp trước với Trung Quốc. Hồng Hà còn để Trịnh Ngọc Thái, phó ban Đối ngoại, ở lại Bắc Kinh để tham gia đoàn đàm phán, thực chất để giám sát Nguyễn Dy Niên có theo đúng những điều họ đã thoả thuận trước với Trung Quốc không.

    Ngày 10.8.91, sau khi cái gọi là cuộc đàm phán này đạt kết quả đúng ý Trung Quốc (hoan nghênh Sihanouk giữ chức chủ tịch SNC, ủng hộ văn kiện khung của LHQ về giải pháp Campuchia), vào đúng ngày Quốc hội Việt Nam thông qua việc bổ nhiệm Nguyễn Mạnh Cầm thay Nguyễn Cơ Thạch làm bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham nhận tiếp Nguyễn Dy Niên và ngỏ lời mời tân Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm thăm Trung Quốc ngày 16.9.91 để chuẩn bị cho cuộc gặp cấp cao Trung – Việt ở Bắc Kinh.

    Ta đã dự kiến sau cuộc đàm phán ở Bắc Kinh sẽ sang Phnom Penh thông báo cho bạn Campuchia nhưng tối 18.8.91 Hồng Hà lại gọi điện chỉ thị: “Theo ý kiến đồng chí Lê Đức Anh, anh Niên không phải đi Campuchia thông báo với bạn nữa và cũng không thông báo cho bất cứ ai về cuộc đàm phán ở Bắc Kinh vừa qua” (mặc dù phía TQ đã thông báo cho các nước ASEAN và các nước phương Tây rồi). Và còn nói thêm: “Từ nay trở đi, trên giấy trắng mực đen đừng ghi ý đồ của Trung Quốc nữa (?) vì vấn đề này BCT đã nắm rồi.”

    Nói chung, từ sau Đại hội VII, tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam – Trung Quốc như cỗ máy đã được tra dầu đầy đủ, diễn biến trơn tru theo trình tự đã định. Ngày 5-10.11.91, sau khi Hiệp định về Campuchia được ký kết ở Paris, TBT Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm chính thức CHND Trung Hoa để hoàn thành việc bình thường hoá mối quan hệ bị trục trặc lớn từ tháng 2.79. Nhưng trong khi lãnh đạo ta ôm kỳ vọng cùng Trung Quốc “bảo vệ CNXH chống đề quốc” thì họ đã xác định quan hệ với ta là “thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đấu” (thân nhưng không gần, sơ nhưng không xa, đấu tranh nhưng không đánh nhau). Trung Quốc nói thế song luôn luôn lấy thế nước lớn để lấn chiếm lãnh thổ lãnh hải ta, và hiểm độc nhất là không ngừng tác động vào nội bộ ta.
    Chương 19
    HIỆP 2 CỦA HỘI NGHỊ QUỐC TẾ VỀ CAMPUCHIA
    Với đà tiến triển nhanh chóng qua các cuộc họp SNC tại Jakarta (6.91), Bắc Kinh, Pattaya (Thái Lan) và Nữu Ước (9.91), P5 quyết tâm giải quyết nhanh gọn vấn đề Campuchia làm đà giải quyết các cuộc xung đột khu vực khác, đặc biệt là Trung Đông. Cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều có lợi ích đồng tình với phương Tây – chủ yếu là Mỹ – gạt nốt những vướng mắc cuối cùng trong việc thông qua các văn bản dự thảo Hiệp định 28.11.90 của P5.

    Cuối tháng 9.91, tôi dẫn đầu đoàn đại biểu nước ta đi Nữu Ước dự khoá họp thứ 10 Đại hội đồng LHQ. Khác với năm 1988, khi tôi đại diện Việt Nam dự Đại hội đồng LHQ khoá thứ 43, lần này vấn đề Campuchia đã đi sát đến giải pháp. Trong thời gian ở Nữu Ước, tôi đã tranh thủ tiếp xúc với Hun Xen đang họp SNC ở đó để tìm hiểu thái độ bạn Campuchia về dự thảo Hiệp định. Tôi được biết ngày 21.9.91, Nhà nước Campuchia cuối cùng đã buông thả rất nhanh tất cả các điểm yêu cầu sửa dự thảo Hiệp định. Như vậy, chỉ còn lại một mình Việt Nam là nước duy nhất đòi bổ sung dự thảo về 4 điểm liên quan đến Việt Nam. Tôi vội thông báo tình hình này về nước để nhà sớm có quyết sách đích đáng cho đoàn đại biểu ta đi dự Hội nghị quốc tế Paris về Campuchia. Ngày 13.10.91 bộ phận thường trực và sau đó các đồng chí khác trong BCT đã thông qua chủ trương Việt Nam tham gia ký kết Hiệp định với 2 phương án đấu tranh về 4 điểm bổ sung của ta. Sáng 14.10, anh Võ Văn Kiệt đã gặp tôi ở Văn phòng Hội đồng bộ trưởng để cho ý kiến về 2 văn bản do Bộ Ngoại giao chuẩn bị cho cuộc họp về vấn đề Campuchia ở Paris. Sau khi nghe tôi trình bày, anh Kiệt tán thành Tờ trình BCT về phương án đấu tranh của ta tại Hội nghị quốc tế Paris, và góp ý kiến sửa lại 2 chỗ trong bản dự thảo Tuyên bố Chính phủ.
    Ngày 16.10, trên đường đi Paris, tôi được điện của của Bộ báo cho biết cả Levitte, thứ trưởng Ngoại giao Pháp và Từ Đôn Tín, lúc này đã là thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc, đều muốn gặp tôi sớm, trước ngày họp Uỷ ban Phối hợp của Hội nghị. Trên cơ sở phán đoán là cả hai đều muốn gặp để thương lượng và thúc đẩy Việt Nam rút các yêu cầu sửa đổi dự thảo Hiệp định để bảo đảm cho cuộc họp Uỷ Ban Phối hợp khỏi gặp trắc trở, tôi đã quyết định gặp Levitte trước, sau đó mới gặp Từ. Suy nghĩ của tôi là: Pháp là nước đồng chủ tịch và là nước đăng cai hội nghị, rất muốn hội nghị đạt kết quả. Đề cao được vai trò Pháp trên quốc tế, đồng thời gặp Pháp trước sẽ tỏ rõ được thiện chí và tính độc lập của ta, nếu gặp Trung Quốc trước gặp Pháp sau thì sẽ chịu tiếng bị sức ép của Trung Quốc mà phải nhượng bộ.

    Ngày 18.10, ngay sau khi đến Paris, tôi đã gặp Levitte thảo luận. Đúng như đã phán đoán, Pháp tha thiết mong Việt Nam có thái độ mềm dẻo đối với dự thảo Hiệp định. Cuối cùng, để tỏ thiện chí, tôi đã thoả thuận với Pháp về cách làm như sau: trong báo cáo của Tổng Thư ký LHQ trước Hội Đồng Bảo An sẽ có giải thích những điểm mà Việt Nam yêu cầu làm rõ. Và ngay trong cuộc họp Uỷ ban Phối hợp ngày 21.10.91, trong bản trình bày của Phó tổng thư ký LHQ Ahmed Rafeuddin cũng phải nêu đầy đủ các giải thích này, đồng thời Levitte nhân danh chủ tịch Uỷ ban sẽ tuyên bố hoan nghênh thiện chí hợp tác của Việt Nam đã thôi không đưa các bổ sung dự thảo Hiệp định nữa vì đã có những giải thích thích đáng của Phó Tổng thư ký LHQ. Tôi cũng thoả thuận với Levitte sẽ có cuộc gặp tay ba với Ahmed để có thoả thuận cuối cùng.

    Hôm sau, tôi gặp Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Từ Đôn Tín. Từ cũng có mục đích thuyết phục ta thôi không đưa các yêu cầu bổ sung nữa, nói nếu Việt Nam đưa bổ sung thì các nước khác cũng đòi bổ sung để cân bằng lại, Mỹ sẽ đòi hoãn việc ký kết và đổ trách nhiệm cho Việt Nam.

    Ngày 20.10.91, như đã thoả thuận với Pháp, ngay sau khi Phó Tổng thư ký LHQ đến Paris, đã có cuộc họp tay ba giữa Việt Nam, Pháp và Phó Tổng Thư ký LHQ Ahmed. Ahmed thoả thuận cách làm như ta đã bàn với Pháp hôm 18.10 và cho trợ lý của ông ta ghi lại các câu chữ mà ta yêu cầu nói rõ khi ông giải thích về mấy điểm bổ sung của ta. Như vậy thực chất là đã vượt mức yêu cầu của ta, nhưng để giữ cao giá, tôi nói sơ bộ thoả thuận như vậy song tôi còn phải xin chỉ thị Hà Nội, sẽ khẳng định lại trong sáng 21.10 trước khi bắt đầu họp Uỷ ban Phối hợp.

    Sáng 21.10.91, khi đoàn Việt Nam đến Trung tâm Hội nghị quốc tế Kléber, có một đoàn viên của đoàn Trung Quốc ra mời tôi gặp Từ Đôn Tín có việc gấp cần trao đổi trước khi họp. Từ yêu cầu gặp riêng tôi nói chuyện bằng tiếng Tàu không qua phiên dịch, cho biết Mỹ định đưa bổ sung vào Định ước một đoạn lên án diệt chủng và yêu cầu tôi cho biết ý kiến. Tôi trả lời: “chuyện này bây giờ chủ yếu là vấn đề của người Campuchia, nên để các bên Campuchia có ý kiến. Còn quan điểm của Việt Nam là đến lúc này không nên để bất cứ một vấn đề nào gây trở ngại cho việc ký kết.” Từ xem ra hài lòng về cách tỏ thái độ của ta. Nhưng cuối cùng hình như đã có sự thoả hiệp giữa Mỹ và Trung Quốc, Mỹ rút bỏ từ “diệt chủng” trong đoạn bổ sung và chỉ nói chung chung về “nhân quyền” và các quyền tự do cơ bản của người Campuchia cần được các nước tôn trọng.

    Sau đó đã tiến hành phiên họp thứ 8 của Uỷ ban Phối hợp của Hội nghị quốc tế Paris về Campuchia (PICC) [1] để thông qua lần cuối các văn kiện đưa ra Hội nghị cấp bộ trưởng. Sự việc đã diễn ra hoàn toàn đúng như đã thoả thuận giữa ta với Pháp và Phó tổng thư ký LHQ. Sau lời khai mạc của hai đồng chủ tịch Pháp và Inđônêxia, Phó Tổng thư ký LHQ Ahmed đọc bản trình bày tình hình chuẩn bị triển khai việc thi hành Hiệp định sẽ được ký kết và đọc đầy đủ những lời giải thích về 4 điểm mà ta yêu cầu bổ sung (việc đưa trở lại hay đưa quân của bất cứ nước ngoài nào vào Campuchia sẽ là vi phạm Hiệp định; các thông tin cần cung cấp cho UNTAC chỉ liên quan đến các lực lượng nước ngoài còn có mặt ở Campuchia khi ký kết Hiệp định này; sự có mặt của sĩ quan liên lạc UNTAC ở thủ đô Việt Nam, Lào và Thái Lan không có hàm ý mở rộng quyền hạn UNTAC sang các nước láng giềng của Campuchia... phải tôn trọng đẩy đủ chủ quyền của các nước này). Đáp lại, tôi đã phát biểu hoan nghênh và ghi nhận những lời giải thích của Phó tổng thư ký LHQ. Levitte, đồng chủ tịch cuộc họp, biểu thị cảm ơn Việt Nam vì thiện chí hợp tác.

    Kết quả cả 4 văn kiện để ký kết đều đã được nhất trí thông qua trong Uỷ ban Phối hợp, không có sự tranh cãi nào về thực chất cả, kể cả những vấn đề ta đã dự phòng như: vấn đề tù binh, vấn đề Việt kiều ở Campuchia, vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia... đều không có đoàn nào nêu ra. Giờ đây chỉ còn là công việc ký kết Hiệp định của anh Nguyễn Mạnh Cầm tối 23.10.91.

    Sáng 22.10.91, Đài RFI (Pháp) đã xin gặp tôi và đặt câu hỏi: “Ông tới Paris với tư cách là đại biểu của Việt Nam tham dự Hội nghị hoà bình về Campuchia, và hôm qua ông đã tham gia thông qua văn bản cuối cùng của Hiệp định hoà bình. Trước hết xin ông cho biết cảm tưởng về việc ký kết văn bản này, khi mà sau mười mấy năm chiến tranh ác liệt, nay ở Campuchia đã có hoà bình thực sự ?” Câu trả lời của tôi lúc đó là: “Cảm tưởng của tôi đối với việc một hai ngày nữa sẽ ký kết Hiệp định hoà bình về Campuchia là cảm tưởng của một người sau nhiều ngày luồn rừng leo núi đã tới được quãng đường rộng thảnh thơi, và cũng là cảm tưởng của một người qua nhiều ngày đi trên sa mạc sắp đến trạm nghỉ. Tuy nhiên đây không phải là trạm nghỉ cuối cùng, mà là nghỉ để tiếp tục một chặng đường mới với những thách thức mới, nhưng chắc chắn có nhiều điều hứa hẹn tốt đẹp hơn”.

    [1] Paris International Conference on Campuchea (PICC)
    Chương 20
    KẾT THÚC MỘT CHẶNG ĐƯỜNG
    NHƯNG LỊCH SỬ CHƯA SANG TRANG
    Sau 12 năm ròng rã, đối với chúng ta, vấn đề Campuchia coi như đã kết thúc và đã trở thành một hồ sơ của bộ phận lưu trữ trong Bộ Ngoại giao Việt Nam. Nhưng những bài học của 12 năm ấy vẫn còn có nhiều tính chất thời sự, nhất là bài học về chính sách và thái độ cư xử với các nước lớn.

    Tiếp sau việc vấn đề Campuchia được giải quyết là việc thực hiện bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Theo thoả thuận giữa hai bên, ngày 5.11.91, TBT Đỗ Mười và thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có cuộc đi thăm chính thức nước CHND Trung Hoa, đánh dấu sự bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. “Quan hệ Việt – Trung tuân thủ các nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau... Quan hệ Việt – Trung không phải là quan hệ đồng minh, không trở lại quan hệ như những năm 50-60...”

    Tuy nhiên sau khi bình thường hoá quan hệ, lại dồn dập diễn ra những sự kiện xấu trên nhiều mặt quan hệ giữa hai nước, tập trung gay gắt nhất là các vấn đề liên quan đến lãnh thổ trên bộ vùng biên giới Hà Giang tháng 2, 3, 4.92; vụ nối lại đường xe lửa Liên vận ở Đồng Đăng, Lạng Sơn tháng 12.91 rồi 4.5.92; Lục Lầm, Quảng Ninh tháng 5.92) và tranh chấp biển đảo mà đỉnh cao là vụ Trung Quốc công khai hoá việc ký kết hợp đồng thăm dò khai thác dầu khí với Công ty Năng lượng Mỹ Crestone tại một vùng rộng lớn trên thềm lục địa của Việt Nam (bãi Tư Chính).

    Vì sao Trung Quốc tăng cường lấn ép ta vào thời điểm này? Vì Trung Quốc cho rằng tình hình đó đang thuận lợi cho họ tranh thủ gấp rút thực hiện yêu cầu tăng thế và lực (xây dựng hải quân nhanh, nổ thử bom 1000 kilôton, thi hành chiến lược “biên giới mềm”) nhằm tạo cho mình một vị thế đỡ bất lợi so với Mỹ và các nước lớn khác, trong đó có ý đồ gấp rút biến biển Nam Trung Hoa - mà ta gọi là biển Đông - thành vùng biển độc chiếm của Trung Quốc, từ đó khống chế toàn bộ vùng Đông Nam Á.

    1. Trật tự thế giới cũ không còn, trật tự thế giới mới chưa hình thành. Các đối thủ chính của Trung Quốc ở châu Á - Thái Bình Dương đều đang gặp khó khăn, Liên Xô vừa tan rã. Liên bang Nga trước mắt chưa phải là thách thức đáng kể, Mỹ đang giảm bớt sự có mặt về quân sự ở châu Á - Thái Bình Dương, tránh can thiệp nếu lợi ích của Mỹ và đồng minh không bị đụng đến.

    2. Đông Nam Á mới bắt đầu quá trình nối lại các quan hệ giao lưu giữa hai nhóm nước đối đầu cũ. Triển vọng liên kết hay nhất thể hoá Đông Nam Á, bất lợi đối với ý đồ bá quyền của Trung Quốc, đang còn có những trở ngại (nghi ngờ nhau do khác ý thức hệ, va chạm lợi ích, ý đồ của Thái Lan đối với Lào, Campuchia) đòi hỏi thời gian khắc phục Trung Quốc muốn tranh thủ thời gian này để cản phá xu thế hợp tác khu vực giữa Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam và ASEAN tạo ra một tập hợp lực lượng thân Trung Quốc ở Đông Nam Á (quân phiệt Thái, quân phiệt Myanmar, Khmer đỏ ở Campuchia và Lào nếu có thể) để khuất phục Việt Nam.

    3. Bản thân Việt Nam còn đang lúng túng về những vấn đề chiến lược (vấn đề đồng minh, vấn đề tập hợp lực lượng, vấn đề bạn thù) trong tình hình mới sau khi Liên Xô tan rã, quan hệ với Mỹ chưa bình thường hoá, Trung Quốc muốn đi vào bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trên thế mạnh.

    Vì vậy Trung Quốc nhẩn nha trong các bước bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, vừa tạo bề mặt thân mật gắn bó Trung – Việt, vừa xiết chặt bên trong, giành lợi thế cho mình trên mọi lĩnh vực quan hệ. Cả hai mặt đều nhằm đạt mục tiêu khẳng định Việt Nam - Đông Dương là thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc, muốn tách Việt Nam khỏi Đông Nam Á và thế giới bên ngoài.
    *
    Ngày 29.11.93, tại cuộc họp Trung ương thứ 6 khoá VII để nhận định tình hình và bàn về ảnh hưởng tới, với dự tính sẽ xin rút khỏi Trung ương trong kỳ họp Trung ương giữa nhiệm kỳ tới, tôi đã tranh thủ nói rõ quan điểm của tôi trước phiên họp toàn thể Trung ương dưới dạng trình bày những suy nghĩ của mình về “Thời cơ và những thách thức”.

    Tôi cho rằng cục diện mới lúc này có mặt thuận lợi là đang nảy sinh những xu thế phù hợp với yêu cầu mở cửa, hoà nhập vào đời sống kinh tế–chính trị quốc tế của ta, đang tạo nên thời cơ thực hiện mục tiêu hoà bình và phát triển của nước ta.

    Đó là:
    1. Xu thế độc lập tự chủ, tự lực tự cường của những nước nhỏ và vừa, có ý thức về lợi ích dân tộc của mình, cưỡng lại chính trị cường quyền áp đặt của nước lớn.
    2. Xu thế đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, tăng cường ngoại gia đa phương do nhu cầu đẩy mạnh giao lưu kinh tế và an ninh tập thể.
    3. Xu thế giữ hoà bình ổn định thế giới và khu vực nhằm bảo đảm môi trường quốc tế thuận lợi cho tập trung phát triển kinh tế.
    4. Xu thế liên kết khu vực về kinh tế và an ninh khu vực.
    Đồng thời, cũng có những thách thức lớn đối với an ninh và phát triển của ta, cả từ bên trong lẫn từ bên ngoài:
    1. Thách thức bên trong là tệ nạn tham ô và nhũng nhiễu đang huỷ hoại sức để kháng vật chất cũng cũng tinh thần của dân tộc ta, làm giảm hẳn khả năng chống đỡ của ta đối với các thách thức bên ngoài.
    2. Diễn biến hoà bình - một dạng biểu hiện của mâu thuẫn Đông - Tây sau chiến tranh lạnh.
    3. Bá quyền bành trướng. Nguy hiểm không kém diễn biến hoà bình, ở sát nách ta, thể hiện lúc mềm, cứng để gây mơ hồ mất cảnh giác (điểm này trong hội nghị hầu như không có ý kiến nào đề cập tới).
    4. Tình hình Campuchia còn đầy bất trắc với Khơ me đỏ còn đó, cộng với chủ nghĩa dân tộc cực đoan của người Campuchia.
    Trên cơ sở nhận định về thời cơ và nguy cơ như vậy, tôi đã đưa ra kiến nghị:
    1. Cần nhìn tổng thể tình hình khách quan và chủ quan, đối chiếu các thách thức với khả năng các mặt của ta để chọn cách xử lý sát thực tế, vừa sức.
    2. Trước hết xử lý thách thức nào trong tầm tay của ta, tập trung chống tham nhũng để bảo tồn và tăng cường sức đề kháng phòng ngừa thách thức bên ngoài.
    3. Ưu tiên cho liên kết khu vực (Đông Nam Á). Liên kết không phải để đối đầu chống nước nào.
    4. Đối với các nước lớn, quan hệ hữu hảo, không đối đầu nước nào, nhưng đều giữ khoảng cách nhất định.
    5. Song song với việc kết bạn, không lơ là với việc đấu tranh khi cần thiết. Song luôn giữ giới hạn. không gây nguy cơ mất ổn định khu vực.
    6. Tránh không làm gì có thể dồn hai hoặc ba đối thủ câu kết lại vơi nhau chống ta.
    Những ý kiến trên đây có thể dùng làm đoạn kết cho phần hồi ức này của tôi, vì phản ảnh khá đầy đủ quan điểm của tôi và cho đến nay (năm 2000) xem ra nó chưa phải đã lỗi thời.
    “… Những thách thức đe doạ trên nhiều mặt của Trung Quốc đối với ta đều đang là những vấn đề hiện thực, đang xảy ra và ta đang phải xử lý, khác với những thách thức đe doạ của các đối tượng khác, kể cả Mỹ, có phần nào còn là giả định và dự phòng…”
    Phụ lục
    NHỮNG THÁCH THỨC
    ĐỐI VỚI AN NINH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TA
    - MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI SÁCH
    (Viết theo yêu cầu của Thường trực BCT
    và đã gửi các đồng chí Thường trực BCT ngày 20.6.1993)

    Những biến đổi lớn trong chính trị thế giới những năm gần đây cũng như những biến đổi lớn của tình hình kinh tế thế giới và những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã tác động tổng hợp vào sự hình thành cục diện chiến lược ngày nay với những xu thế mới ngày càng thể hiện rõ nét.

    Bối cảnh chung này đã thúc đẩy tất cả các nước lớn nhỏ, đã phát triển hay đang phát triển, phải điều chỉnh lại chiến lược, điều chỉnh lại thứ tự ưu tiên các mục tiêu chiến lược của mình sao cho phù hợp đặc điểm tình hình thế giới mới và những xu thế chung hiện nay.

    Một vấn đề lớn đặt ra cho mỗi nước là sớm xác định được những cơ hội và nhất là những thách thức trở ngại cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược của mình. Đối với ta, trong khi phấn đấu thực hiện mục tiêu chiến lược là sớm đưa đất nước “ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế – xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển với nhịp độ mới vào đầu thế kỷ 21”, để bảo đảm hoà bình và ổn định chúng ta cần tìm ra được câu trả lời cho những vấn đề cấp bách là: hiện nay về mặt đối ngoại đất nước ta đang đứng trước những thách thức, đe doạ chủ yếu gì? có thể từ đâu đến và dưới dạng nào ? Đâu là mối đe doạ trực tiếp nhất, thúc bách nhất cần đối phó ? Phương hướng xử lý, trong đó có vấn đề tập hợp lực lượng để đối phó với những đe doạ, thách thức đó sao cho phù hợp với khả năng còn rất hạn chế về mọi mặt của ta ?
    I. Những thách thức đe doạ an ninh và phát triển của ta
    có thể xuất xứ từ đâu và dưới những dạng nào ?


    Hơn 2 năm qua kể từ Đại hội Đảng lần thứ 7, trên cơ sở những thành tựu trong công cuộc Đổi mới trong nước, việc triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá quan hệ theo hướng “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, chúng ta đã cải thiện một bước đáng kể vị trí nước ta trên quốc tế. Quan trọng nhất là ta đã phá được một bước quan trọng thế bị cô lập về chính trị, tạo môi trường quốc tế thuận lợi hơn cho việc giữ vững hoà bình và đẩy mạnh phát triển kinh tế.

    Tuy nhiên, trong tình hình quan hệ đối ngoại của ta đã bị đảo lộn ghê gớm với sự tan rã của hệ thống các nước bạn bè ở Liên Xô và Đông Âu thì những kết quả này mới chỉ là bước đầu và chưa thật vững chắc. Về chính trị, ta chưa tạo được hậu thuẫn quốc tế thay thế cho những chỗ dựa truyền thống mà ta vừa mất đi. Về kinh tế, đất nước ta còn ở tình trạng lạc hậu về kinh tế, KHKT so với nhiều nước trong khu vực và chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế – xã hội. Ngày nay quan hệ giữa ta và các nước chủ yếu dựa trên cơ sở lợi ích tương đồng, trên từng mặt, từng vấn đề; hoàn toàn khác với phương thức tập hợp lực lượng truyền thống trước đây và đối với bất cứ đối tác nào cũng đều có hai mặt hợp tác và đấu tranh rất phức tạp. Trong khi đó, những đe doạ thách thức đã và đang nảy sinh từ những phía khác nhau, trước mắt và trong tương lai gần.

    Trên cơ sở dự báo chiến lược, những đối tượng chính trước mắt hoặc sau này có thể tạo nên những đe doạ thách thức chủ yếu đối với sự nghiệp an ninh và phát triển của ta là: Trung Quốc, Mỹ, Nhật và Thái Lan .

    Sau đây là những dạng thách thức đe doạ mà mỗi đối tượng có thể gây ra đối với ta:

    1. Trung Quốc: Sau hơn 1 năm bình thường hoá, quan hệ Việt –Trung có nhiều mặt được thúc đẩy như trao đổi đoàn qua lại, mở một số cửa khẩu, buôn bán biên giới... Song mặt tiêu cực và hạn chế đang nổi lên, nhiều hiệp định đã ký kết và nhiều thoả thuận ở cấp cao chưa được thực hiện. Đặc biệt từ đầu năm 1993, Trung Quốc dùng nhiều biện pháp tổng hợp để tăng sức ép và tạo thêm nhiều khó khăn cho ta, gây tình hình không ổn định cho ta cả bên trong lẫn bên ngoài nhằm làm chậm đà phát triển kinh tế của ta và kìm hãm việc mở rộng quan hệ đối ngoại của ta trước hết là ở khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương. Những thách thức và đe doạ của Trung Quốc đối với ta đang được thể hiện ngày càng rõ nét dưới các dạng chính sau đây:

    a. Xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ta trên bộ và trên biển: trong khi trên bộ, Trung Quốc không có dấu hiệu nào muốn giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới, lại còn làm xấu thêm tình hình (xâm canh xâm cư, xây kè cống làm thay đổi dòng chảy các sông suối biên giới có lợi cho Trung Quốc, lấn sang phía ta) thì trên biển Trung Quốc liên tiếp có những bước leo thang nghiêm trọng từ tranh chấp ngoài biển Đông, Trung Quốc đã từng bước ngày càng lấn sâu vào thềm lục địa, ngay trong khu vực ta đã phân lô ký kết với các công ty nước ngoài và đang thăm dò khai thác dầu khí (đầu tháng 5.93, Trung Quốc cho tàu “FENDOU 4” vào thăm dò địa chấn ở khu vực lô 6 nằm sâu trong thềm lục địa của ta) bộc lộ ý đồ biến một số khu vực trong thềm lục địa của ta thành vùng tranh chấp, đang chuẩn bị dư luận để đưa đảo Bạch Long Vĩ vào diện tranh chấp.

    b. Phá môi trường quốc tế hoà bình ổn định của Việt Nam với những hoạt động: ở Campuchia, thông qua Khmer Đỏ khuấy động vấn đề người Việt Nam ở Campuchia đồng thời làm cho tình hình Campuchia khó đi vào ổn định; lôi kéo 3 nước (Thái, Miến, Lào) thành một cụm liên kết kinh tế ở Đông Nam Á lục địa thượng lưu sông Mêkông gắn với Trung Quốc, tách rời Việt Nam; khủng hoảng biển Đông kéo dài cũng có tác động phá môi trường phát triển của Việt Nam.

    c. Gây mất ổn định chính trị, kinh tế bên trong Việt Nam: nêu trở lại “vấn đề người Hoa”, đẩy số người Hoa đã bỏ về Trung Quốc từ những năm 78, 79 trở lại Việt Nam; thông qua Khmer Đỏ dồn đuổi Việt kiều ở Campuchia về nước; gây sức ép với Hồng Kông đưa toàn bộ số thuyền nhân ở đó về Việt Nam trước năm 1997; để hàng lậu từ Trung Quốc tuồn vào Việt Nam qua con đường tiểu ngạch bán hàng vào Việt Nam với giá rất rẻ gây rối loạn thị trường, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất ở nước ta.

    d. Kìm hãm phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam: tiếp tục bắt giữ tàu thuyền của ta (số lượng nhiều hơn 1992: 28 chiếc); chống việc ICAO trả lại vùng FIR Hồ Chí Minh cho Việt Nam.

    2. Mỹ có thể thách thức đe doạ an ninh và phát triển của Việt Nam qua các dạng:

    a. Mỹ là nước lớn duy nhất hiện nay chưa bình thường hoá quan hệ với Việt Nam và còn tiếp tục chính sách cấm vận gây trở ngại cho các tổ chức quốc tế (Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới...) và các nước khác trong việc viện trợ tài chính và hợp tác với ta phát triển kinh tế.

    b. Tiến hành diễn biến hoà bình: thông qua những cái gọi là đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền ép ta đa nguyên, đa đảng; kích động các vấn đề tôn giáo, dân tộc thiểu số để gây tình hình phức tạp làm mất ổn định chống ta.

    c. Nuôi dưỡng những phần tử phản động hoặc thoái hoá biến chất còn lại ở Việt Nam và các lực lượng phản động người Việt đang ở nước ngoài khi có điều kiện thuận lợi thì gây bạo loạn, lật đổ như đã làm ở một số nước.

    3. Nhật Bản trước mắt là một đối tượng hợp tác chính của ta để thực hiện yêu cầu phát triển nhanh kinh tế Việt Nam, song ta vẫn phải dự phòng về lâu dài những khả năng xấu từ phía Nhật:

    a. Trước hết là cùng với việc tăng cường đầu tư viện trợ, Nhật sẽ từng bước thao túng kinh tế Việt Nam và đưa Việt Nam và cả Đông Nam Á vào quỹ đạo Nhật Bản phục vụ cho tham vọng bá quyền khu vực và thế giới của Nhật Bản về kinh tế cũng như về chính trị.

    b. Mặt khác, cùng với tham vọng về chính trị và kinh tế được thực hiện từng bước, chủ nghĩa quân phiệt Nhật có thể được phục hồi nhằm trở thành một siêu cường toàn diện ở khu vực và trên thế giới. Nguy cơ này sẽ có hậu quả trực tiếp tới khu vực Đông Á trong đó có Việt Nam.

    4. Thái Lan hiện là một bộ phận của ASEAN mà ta đang tích cực tranh trủ hợp tác cả về kinh tế lẫn chính trị. Nhưng chủ nghĩa “Đại Thái” xưa nay là nguy cơ truyền thống đối với an ninh và phát triển của Việt Nam, hiện vẫn tồn tại và đầy tham vọng.

    Thái luôn coi Việt Nam là một đối thủ tiềm tàng về kinh tế cũng như về chính trị. Vì vậy thách thức của Thái đối với ta có thể đến từ hai phía:

    a. Về kinh tế, Thái có lợi ích kiềm chế nhịp độ phát triển của Việt Nam (vấn đề Uỷ ban Mêkông, FIR Hồ Chí Minh) đồng thời tận dụng được Việt Nam như một thị trường tiêu thụ hàng Thái và một nguồn cung cấp nguyên liệu (lâm sản, hải sản, khoảng sản).

    b. Về chính trị, quân sự, Thái có lợi ích biến Lào và Campuchia từ những đồng minh của Việt Nam thành vùng chịu ảnh hưởng Thái nhiều hơn. Đồng thời Thái vẫn có thể cung cấp căn cứ địa cho các lực lượng phản động Việt Nam thâm nhập phá hoại nội địa ta.
    II. Nguy cơ lớn nhất và thúc bách nhất đe doạ
    an ninh và phát triển của ta là từ đâu ?


    Trong 4 đối tượng có thể tạo nên nguy cơ đe doạ ta, có những nước lớn cỡ toàn cầu hoặc khu vực như Mỹ, Trung Quốc, Nhật; riêng Thái Lan là nước ngang tầm với ta nên mức độ thách thức đối với ta không so được với các nước lớn. Trong các dạng thách thức khác nhau của cả 4 đối tượng, có nhiều điều mới trên cơ sở giả định hoặc dự phòng để cảnh giác, song có những điều đang là hiện thực, đang là những vấn đề thực tế và thúc bách đặt ra trước mắt ta. Vì vậy với khả năng rất hạn hẹp về mọi mặt của ta, ta cần phân biệt rõ đâu là nguy cơ lớn nhất trực tiếp đe doạ những lợi ích sống còn của dân tộc Việt Nam để tập trung trí lực và vận dụng cao độ sách lược đối ngoại đối phó lại. Trước hết chắc chắn đó không phải là Nhật hay Thái Lan. Đó chỉ có thể là Mỹ hay Trung Quốc.

    1. Chiến lược của Mỹ và ý đồ Mỹ đối với Việt Nam
    Sau sự tan rã của Liên Xô và sự kết thúc chiến tranh lạnh, Mỹ gặp phải nhiều thách thức hơn là cơ hội. Thách thức bởi những vấn đề kinh tế – xã hội cấp bách trong nước, thách thức bởi những đối thủ vốn là đồng minh cũ của Mỹ trong chiến tranh lạnh như Nhật, EC. Vì vậy, mục tiêu chiến lược của Mỹ phải điều chỉnh lại một cách thực tế và khiêm tốn hơn: cố gắng duy trì vị trí số một trên thế giới và ở châu Á - Thái Bình Dương, hiện đang trở thành vũ đài chính của thế giới. Trước thách thức ngày càng lớn của các trung tâm kinh tế phương Tây, việc xoá CNXH ở châu Á chưa phải là ưu tiên hàng đầu của Mỹ hiện nay.

    Khoảng cách về so sánh lực lượng giữa Mỹ và các cường quốc khác không còn quá lớn như trước, để thực hiện được mục tiêu chiến lược trên, phương hướng của Mỹ chủ yếu là tạo một cân bằng lực lượng giữa các đối thủ có tiềm năng đe doạ vị trí số một thế giới của Mỹ, dùng đối thủ này kiềm chế đối thủ kia, thông qua hợp tác để kiềm chế các đối thủ, tăng cường vai trò các thể chế quốc tế (như LHQ) trong việc xử lý các xung đột khu vực, tạo thành một thế ổn định chung có lợi cho Mỹ.

    Ở châu Á - Thái Bình Dương cũng vậy, Mỹ đang cô lập nên trật tự khu vực mới trên cơ sở tam giác chiến lược mới Mỹ – Nhật – Trung thay cho tam giác Mỹ – Xô - Trung ngày trước, trong đó Mỹ vừa tranh thủ và họp tác với Trung Quốc mà chủ yếu là với Nhật, vừa cảnh giác kiềm chế cả hai, chủ yếu là Trung Quốc.

    Riêng với Trung Quốc, Mỹ rất coi trọng vai trò của đất nước có hơn 1 tỉ dân này trong kế hoạch tạo lập một trật tự quốc tế mới. Mỹ cần thúc đẩy và tranh thủ sự hợp tác của Trung Quốc trong nhiều vấn đề, nhất là trong việc xử lý các cuộc xung đột khu vực trong Hội đồng Bảo an LHQ mà Trung Quốc là một thành viên có quyền phủ quyết. Vì vậy chắc chắn Mỹ sẽ không vì Việt Nam mà làm ảnh hưởng xấu đến quan hệ với Trung Quốc. Mỹ sẽ không trực tiếp can thiệp vào các tranh chấp song phương giữa ViệtNam và Trung Quốc nếu tranh chấp đó không đụng chạm đến lợi ích của Mỹ và đến ổn định của cả khu vực.

    Song cũng vì lợi ích chiến lược của Mỹ, Mỹ không thể khuyến khích hoặc làm ngơ để Trung Quốc tự do bành trướng xuống Đông Nam Á. Trong chiến lược châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ, chính quyềnClinton đã tỏ ra coi trọng vai trò Đông Nam Á hơn trước. Có thể vì đây là một vùng khá năng động về phát triển kinh tế, đồng thời lại có một cơ chế tiểu khu vực có sức sống và gắn bó với lợi ích kinh tế của Mỹ. Song mặt khác vì đây đang là hướng bung ra của Trung Quốc trong ý đồ lấp “khoảng trống quyền lực” sau khi Liên Xô tan rã và Mỹ thu bớt sự có mặt quân sự ở Đông Nam Á. Lợi ích của Mỹ là tạo ra được ở đây một Đông Nam Á ổn định và đủ mạnh để cản bước Trung Quốc trong chiến lược “biên giới mềm” và “mở rộng không gian sinh tồn”. Ý đồ của Mỹ là từng bước thúc đẩy việc mở rộng ASEAN thành một tổ chức chung cho cả 10 nước Đông Nam Á, có khả năng trở thành một đối trọng đáng kể đối với Trung Quốc bảo đảm ổn định khu vực. Trong kế hoạch tạo lập một cơ chế an ninh khu vực của châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ, Nhật và phương Tây nói chung đều đã lấy ASEAN làm cốt lõi về tổ chức. Hội nghị thường niên giữa ASEAN và 6 nước đối tác đang trở thành diễn đàn trao đổi về an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Nga cũng tỏ thái độ ủng hộ phương hướng này. Riêng Trung Quốc không mặn mà.

    Vậy có khả năng Mỹ đồng tình hay cấu kết với Trung Quốc chống Việt Nam không ? Trước đây Mỹ và Trung Quốc hợp lực chống Việt Nam trong vấn đề Campuchia là vì cả hai cùng có yêu cầu chung là đánh vào Liên Xô và xoá bỏ ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á. Nay Liên Xô đã sụp đổ, thế chiến lược ở châu Á - Thái Bình Dương đã thay đổi, nếu Mỹ lại đi với Trung Quốc chống Việt Nam thì chẳng khác gì là đẩy Việt Nam vào tình thế hoặc chủ động liên minh với Trung Quốc hoặc phải khuất phục trước sức mạnh của Trung Quốc, từ đó tạo điều kiện cho Trung Quốc từng bước khống chế cả Đông Nam Á một cách dễ dàng và nhanh chóng trở thành một trong những đối thủ đe doạ vị trí số 1 của Mỹ trên toàn cầu. Điều này hoàn toàn ngược lại mục tiêu chiến lược của Mỹ.

    Mặt khác, một nước Việt Nam đổi mới, độc lập với Nga, Trung Quốc cũng như không chịu sự chi phối của Nhật, cải thiện quan hệ và hoà nhập với các đồng minh của Mỹ ở Đông Nam Á là phù hợp với lợi ích của Mỹ về hoà bình, ổn định, nhằm duy trì ảnh hưởng của Mỹ và hạn chế các thách thức nổi lên đối với vị trí của Mỹ ở khu vực. Việt Nam tuy không có một vị trí quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, nhưng Việt Nam vẫn là một nhân tố mà Mỹ không thể không tính đến trong chiến lược của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á. Hơn nữa về kinh tế Mỹ có lợi ích tranh thủ thị trường và nguồn nhiên liệu của Việt Nam. Mỹ không muốn vắng mặt trong khi các đối thủ của Mỹ đi mạnh vào thị trường ViệtNam.

    Bên cạnh những lợi ích có phần nào trùng hợp với ta như trên, mặt tiêu cực trong chính sách của Mỹ đối với ta không nhỏ. Mỹ không thể từ bỏ ý đồ diễn biến hoà bình với ta. Tuy nhiên Mỹ có làm được hay không chủ yếu còn tuỳ thuộc vào khả năng giữ vững ổn định chính trị trong nước của ta, tức là tuỳ thuộc vào bản lĩnh chính trị của Đảng ta và sự vững vàng cảnh giác của cán bộ và nhân dân ta và sự gắn bó giữa dân với Đảng. Ở đây nhân tố vững mạnh bên trong có ý nghĩa quyết định. Thắng lợi của công cuộc Đổi mới, sự ổn định về kinh tế – xã hội ở nước ta và việc không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng trong quá trình đa dạng hóa và mở rộng quan hệ quốc tế sẽ là đảm bảo tốt nhất hạn chế tác động của mọi thủ đoạn diễn biến hoà bình. Mặt khác cũng phải thấy rõ không phải Mỹ tập trung chống phá Việt Nam với bất cứ giá nào vì Mỹ có những ưu tiên chiến lược lớn hơn và hơn nữa hiện nay Mỹ đang có những lợi ích trùng hợp với ta ở khu vực mà ta có thể tranh thủ lợi dụng để phục vụ hữu hiệu cho mục tiêu chiến lược của ta.

    2. Chiến lược của Trung Quốc và ý đồ của Trung Quốc đối với Việt Nam
    Trái với Mỹ, Trung Quốc thấy ở những biến đổi lớn trong cục diện thế giới ngày nay, một “cơ hội ngàn năm có một”. Đối với Trung Quốc cơ hội đang tăng lên, còn thách thức giảm đi. Trong khi Mỹ cảm thấy cần co bớt lại để củng cố và phòng ngự là chính thì Trung Quốc nuôi tham vọng lớn là muốn vươn lên trở thành một cực trong trật tự thế giới đa cực mới. Trong khi hiện đại hoá trên 4 mặt vẫn là cứu cánh chính để thực hiện mục tiêu đó, Trung Quốc không ngừng tranh thủ mọi cơ hội có được để thực hiện kế hoạch bành trướng, gây mất ổn định của nước khác (Campuchia, Myanmar) để mưu lợi cho mình. Do hiện nay thế cũng như lực chưa đủ mạnh, nên họ thực hiện ý đồ một cách tính toán thận trọng tuỳ theo diễn biến của tình hình khu vực, phản ứng của các đối thủ và thực lực của chính họ.

    Trước mắt Trung Quốc đang ra sức thực hiện ý đồ nhanh chóng trở thành một cường quốc ở châu Á - Thái Bình Dương, có địa vị ngang hàng với Mỹ, Nhật ở khu vực này. Trung Quốc đặt mục tiêu lấn chiếm toàn bộ biển Đông ở vị trí ưu tiên hàng đầu. Trung Quốc coi trọng vị trí chiến lược của biển Đông, vì kiểm soát được biển Đông tức là khống chế được cả Đông Nam Á và cả con đường giao lưu huyết mạch từ Thái bình dương qua Ấn Độ Dương, và cũng là khu vực giầu tài nguyên nhất là dầu khí (trữ lượng dầu ở khu vực này ngang Vịnh Ba Tư) mà Trung Quốc đang cần để đẩy nhanh tốc độ phát triển.

    Đáng chú ý là trong khi Trung Quốc mở một chiến dịch hoạt động ngoại giao rộng lớn nhằm tranh thủ tăng cường quan hệ hợp tác phát triển với tất cả các nước công nghiệp hoá phương Tây, tranh thủ các nước đang phát triển và không liên kết hòng khôi phục vai trò lãnh đạo thế giới thứ ba, cải thiện quan hệ với các nước láng giềng cùng chung biên giới, đặc biệt là gần đây tăng cường lôi kéo các nước khu vực Đông Nam Á để phá thế “quần lang đấu hổ”, thì Trung Quốc luôn tập trung mũi nhọn gây sức ép và lấn dần Việt Nam trên mọi vấn đề, mặc dù ta đã dùng đủ phương sách để tỏ rõ thái độ cầu hoà và hữu hảo với họ. Phải chăng vì Trung Quốc cho rằng Việt Nam là điểm yếu và dễ tính để lấn nhất lúc này (khó về quân sự, nghèo về kinh tế, đơn độc về chính trị) mà lại chiếm một vị trí chiến lược quan trọng ở Đông Nam Á và là trở ngại lớn nhất cho kế hoạch biển Đông của Trung Quốc.

    Những hoạt động bất lợi đối với Việt Nam của Trung Quốc sẽ không dừng lại ở trạng thái hiện nay mà sẽ còn được tiếp tục đẩy tới vì Trung Quốc cho rằng tình thế hiện tại đang rất thuận lợi cho việc Trung Quốc lấn ép Việt Nam mà chỉ gặp phải phản ứng quốc tế ở mức thấp nhất vì Mỹ chưa bỏ cấm vận Việt Nam; quan hệ hợp tác, đầu tư giữa các nước và Việt Nam còn chưa phát triển; vấn đề Campuchia đang còn thu hút nhiều sự chú ý của dư luận quốc tế; cơ chế an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương chưa hình thành. Trung Quốc đặt năm 1997 thành một mốc thời gian quan trọng trong quá trình xây dựng sức mạnh mọi mặt của Trung Quốc: năm 1997 là năm Trung Quốc thu hồi Hồng Kông và cũng có thể là năm thực hiện một bước kế hoạch hình thành “vành đai kinh tế Đại Trung Hoa” bao quanh Đông Nam Á; năm 1997 là năm quân đội Trung Quốc sẽ được trang bị hàng không mẫu hạm và các trang bị tối tân khác, đặc biệt về hải không quân để có thể vươn ra khắp biển Đông; có tin Trung Quốc đang cố rút ngắn mục tiêu của năm 2000 xuống năm 1997 sẽ tăng tổng sản phẩm quốc dân lên gấp 4 lần. Sức ép của Trung Quốc đối với ta sẽ phát triển thuận chiều với sự phát triển các mặt của Trung Quốc.

    3. Những phân tích tình hình trên đây có thể dẫn đến kết luận:
    Trước mắt cũng như trong tương lai dự báo được, Trung Quốc là nguồn xuất xứ chính của những thách thức đe doạ đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, cũng như đối với an ninh và phát triển của Việt Nam. Những thách thức đe doạ trên nhiều mặt của Trung Quốc đối với ta đều đang là những vấn đề hiện thực, đang xảy ra và ta đang phải xử lý, khác với những thách thức đe doạ của các đối tượng khác, kể cả Mỹ, có phần nào còn là giả định và dự phòng. Những mâu thuẫn về lợi ích trên các mặt giữa ta với Trung Quốc có nhiều hơn với các đối tượng khác.

    III. Kiến nghị đối sách

    1. Xét về so sánh lực lượng giữa Việt Nam và Trung Quốc, Việt Nam là nước nhỏ so với Trung Quốc là nước lớn, có trọng lượng và ảnh hưởng chính trị rộng lớn hơn ta nhiều. Nếu tách riêng mối quan hệ ViệtNam - Trung Quốc với những vấn đề tranh chấp hiện có cũng như tiềm tàng thì tình hình hoàn toàn bất lợi cho ta. Nhưng nếu gắn mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc vào trong tổng thể quan hệ quốc tế của thế giới và khu vực, thì ta có khả năng vận dụng được những xu thế lớn của thời đại, như tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu được quốc tế hoá cao và xu thế chung muốn duy trì và củng cố hoà bình và ổn định để đẩy mạnh phát triển kinh tế, để cải thiện thế chính trị của ta trong cuộc đấu tranh nhằm giải quyết các vấn đề tranh chấp với Trung Quốc bảo vệ lợi ích chính đáng của ta.

    Vì bên cạnh những chỗ mạnh so với ta trên mặt trận đối ngoại Trung Quốc có những điểm yếu cơ bản mà ta có thể và cần biết cách khai thác để có thể hạn chế Trung Quốc trong chính sách lấn ép ta trên nhiều mặt. Những điểm yếu đó là:

    a. Để thực hiện ưu tiên tối cao là đẩy nhanh hiện đại, Trung Quốc cần Mỹ hơn là Mỹ cần Trung Quốc. Do đó tuy giữa Mỹ - Trung Quốc có đấu tranh và thoả hiệp, nhưng rõ ràng Trung Quốc ngại phản ứng của Mỹ, không dám thách thức Mỹ trong khi thế và lực của Trung Quốc còn có hạn. Thế giới cũng như các nước khu vực đều coi Mỹ là đối trọng có hiệu quả nhất trong việc kiềm chế Trung Quốc. Cũng vì thế Trung Quốc rất không muốn Mỹ cải thiện quan hệ và đi tới bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.

    b. Trong lúc chưa xây dựng được lực lượng kinh tế cũng như quân sự đủ mạnh, Trung Quốc rất ngại các nước khu vực Đông Nam Á - đối tượng bành trướng trước mắt của Trung Quốc – liên kết với nhau, đặc biệt là giữa ASEAN và Việt Nam, thành thế “quần lang đấu hổ” chống lại nguy cơ chung. Chính vì vậy mà Trung Quốc đang tìm mọi cách lôi kéo phân hoá Đông Nam Á thành những mảnh riêng biệt, thậm chí có thể chống đối nhau.

    c. Trước xu thế mạnh mẽ của chung trên thế giới và trong khu vực muốn có ổn định để tập trung ganh đua phát triển kinh tế, Trung Quốc rất ngại bị dư luận quốc tế, trước hết là dư luận khu vực, coi là “nhân tố gây mất ổn định” ở châu Á - Thái Bình Dương và thế giới. Cuộc vận động của Mỹ, Nhật, nhất là ASEAN, nhằm từng bước thúc đẩy việc hình thành một diễn đàn và tiến tới một cơ chế về an ninh tập thể khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay chính là nhằm kiềm chế Trung Quốc.

    2. Để có thể tận dụng những điểm yếu của Trung Quốc vào việc cải thiện thế chính trị trong cuộc đấu tranh không cân sức này, ta nhất thiết cần phải chọn lựa và hình thành một chiến lược đối ngoại hết sức linh hoạt phù hợp với chiều hướng diễn biến chung của chính trị và kinh tế thế giới, thích ứng với những đặc điểm lớn của cục diện quốc tế hiện tại. Cuộc đấu tranh chống lại những thách thức đe doạ của đối tượng đặc biệt này là một nhiệm vụ hết sức thúc bách, đòi hỏi những biện pháp tổng hợp song điển và trên mặt trận ngoại giao là chính.

    Với sự kết thúc trạng thái thế giới phân thành 2 cực đối lẫn nhau, do tính tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nước trên toàn cầu và trong mỗi khu vực, việc không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá để hoà nhập vào đời sống chung của cộng đồng quốc tế là rất quan trọng cả về chính trị lẫn kinh tế. Đồng thời trong bối cảnh quốc tế hiện nay, an ninh của một nước tuỳ thuộc rất lớn và trước hết vào mối quan hệ với các nước trong khu vực. Đặc biệt việc xử lý các vướng mắc trong quan hệ quốc tế và khu vực của ta vừa qua cho thấy việc xử lý tốt mối quan hệ với các nước lớn là cực kỳ quan trọng đối với lợi ích an ninh và phát biểu của nước ta. Kinh nghiệm xương máu của dân tộc ta trong những thập kỷ qua cho thấy cần có chính sách quan hệ cân bằng giữa các nước lớn, khôn khéo lợi dụng những sai khác về lợi ích giữa họ với nhau, và tuyệt đối không để bên ngoài hiểu là Việt Nam có ý đồ đi với nước lớn này chống nước nọ, gần lợi ích của ta với lợi ích an ninh và phát triển của các nước láng giềng trong khu vực để taọ cho nước ta một thế quốc tế thuận lợi hơn.

    3. Những trọng điểm trong chiến lược đối ngoại của ta phải là các nước lớn trong tam giác chiến lược châu Á - Thái Bình Dương và khối các nước ASEAN, những nhân tố có khả năng tác động nhiều tới Trung Quốc.

    a. Với Mỹ:
    Quan hệ với Mỹ là một bộ phận quan trọng trong chính sách đa dạng hoá quan hệ đối ngoại của ta. Hiện nay Mỹ là nhân tố duy nhất có khả năng làm đối trọng và kiềm chế Trung Quốc, do đó ta cần kiên trì và quyết tâm kéo Mỹ đi vào bình thường hoá quan hệ. Kéo Mỹ vào vấn đề Mỹ có lợi ích trực tiếp ở Việt Nam, nhất là lợi ích trong lĩnh vực dầu khí ngoài khơi Việt Nam, khiến Mỹ không thể làm ngơ trước tình hình “bất ổn định” do Trung Quốc khiêu khích, xâm lấn gây ra. Một nhà nghiên cứu Mỹ về châu Á đã đánh giá “một dàn khoan của Công ty Mobil Oil (Mỹ) ở biển Đông có giá trị ngang với cả một Hạm đội 7”.

    Thúc đẩy bình thường hoá quan hệ với Mỹ trước hết là việc bỏ cấm vận có ý nghĩa rất quan trọng đối với yêu cầu an ninh, ổn định và phát triển kinh tế của ta, giúp ta cải thiện với các đối tượng khác và tạo thêm điều kiện thuận lợi cho ta đối phó với các thách thức hiện nay. Triển khai mạnh mẽ quan hệ với Mỹ cũng như với các đối tượng khác không phải để tạo một tập hợp lực lượng chống Trung Quốc vì điều đó trái với phương châm đối ngoại “làm bạn với tất cả” của ta, cũng không phù hợp với các tính toán chiến lược của Mỹ cũng như của các nước khác.

    Việc ta vừa giữ hoà khí với Trung Quốc vừa có quan hệ bình thường với Mỹ và thúc đẩy quan hệ với Nhật, phương Tây và ASEAN và các nước khác sẽ tạo ra cho ta thế mạnh trong quan hệ cân bằng với các đôí tượng.

    Trong tình hình hiện nay việc hợp tác giải quyết tốt vấn đề POW/MIA là khâu thiết yếu để tháo gỡ trở ngại cho quan hệ Việt – Mỹ. Đồng thời đẩy mạnh công tác vận động trong nội bộ Mỹ (lobby) với khẩu hiệu có tính sách lược dễ tranh thủ dư luận Mỹ thúc đẩy Mỹ sớm bỏ cấm vận, thu hút các công ty Mỹ vào làm ăn ở Việt Nam vừa tạo áp lực vừa tạo điều kiện cho chính quyền Mỹ đi vào bình thường hoá quan hệ với ta sớm nhất. Mặt khác ta cần quan tâm có chủ trương, chính sách và biện pháp thích đáng để vô hiệu hoá ý đồ của Mỹ và các nước phương Tây dùng vấn đề “dân chủ, nhân quyền” gây sức ép với ta.

    Song song với các bước cải thiện quan hệ Việt Nam và Mỹ, cần kết hợp mở rộng đường lối “hoà hợp dân tộc” bằng những chính sách cụ thể đối với Việt kiều ở Mỹ và các nước khác nhằm chuyển họ thành những lực lượng mạnh mẽ hỗ trợ cho công cuộc hiện đại hoá nền kinh tế và KHKT của nước nhà. Việc làm này tất nhiên sẽ tác động trở lại đối với việc tăng cường quan hệ hợp tác của ta với Mỹ và các nước có người Việt sinh sống.

    b. Với ASEAN:
    ASEAN hiện được coi là tổ chức khu vực có sức sống mạnh nhất mà các nước lớn, trong đó có Trung Quốc, phải tính đến trong chính sách châu Á - Thái Bình Dương của họ. Giữa ta và các nước ASEAN có nguyện vọng chung là hoà bình, ổn định và phát triển, đồng thời cũng phải lo đối phó với thách thức bên ngoài, từ Trung Quốc và Nhật Bản. Tăng cường hợp tác khu vực vừa phù hợp với xu thế hiện nay vừa tạo thế cho ta trong quan hệ với các nước lớn ngoài khu vực, nhất là Trung Quốc. Để thúc đẩy quan hệ này, ngoài việc tăng cường quan hệ song phương bằng các biện pháp xây dựng lòng tin, cần sớm gạt những tồn tại trong quan hệ tay đôi giữa ta và một số nước ASEAN qua việc hợp tác giải quyết vấn đề vùng chồng lấn với Inđônêxia, Malaysia, Thái Lan,... cần có các bước đi mạnh mẽ tham gia các cơ chế hợp tác khu vực vì an ninh và phát triển phù hợp với khả năng và lợi ích của ta; đặc biệt là cần tích cực tham gia quá trình trao đổi về cơ cấu an ninh khu vực và sớm tính việc tham gia ASEAN. Nói chung ta cần tích cực, chủ động tăng cường các điểm đồng giữa ta và các nước ASEAN, xử lý khéo léo những khác biệt, tránh để những khác biệt ảnh hưởng tới quan hệ hợp tác.

    c. Với các nước và các đối tượng khác, đặc biệt là với Nhật Bản, Nga, Cộng đồng châu Âu,... ta cần tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác về nhiều mặt nhằm tận dụng tối đa khả năng hợp tác kinh tế, KHKT, kinh nghiệm quản lý của các nước này cho công cuộc phát triển đất nước và qua đó góp phần tạo thế cân bằng lực lượng có lợi cho ta ở khu vực, tranh thủ tập hợp dư luận rộng rãi hỗ trợ cho cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ của ta, tạo nên một mạng lưới lợi ích kinh tế – chính trị, che chắn thêm cho ta trước mưu đồ xâm lấn của Trung Quốc.

    d. Với Trung Quốc:
    - Bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc là một yêu cầu chiến lược của ta. Do Trung Quốc thi hành chính sách 2 mặt nên đối sách của ta cũng gồm 2 mặt vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa chủ động thúc đẩy quan hệ trên cơ sở những thoả thuận đã đạt được, vừa kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đồng thời giữ vững phương châm không để trở lại tình trạng đối đầu với Trung Quốc cũng như không đặt các nước trước sự lựa chọn hoặc Việt Nam hoặc Trung Quốc. Biện pháp tối ưu lúc này là chủ động tạo nên cục diện các nước lớn và ASEAN có lợi ích kinh tế, an ninh ngày càng lớn trong quan hệ với Việt Nam. Cục diện đó cộng với sự lớn mạnh càng nhanh càng tốt của bản thân chúng ta sẽ là sự răn đe có hiệu quả nhất đối vơí mọi hoạt động lấn chiếm của Trung Quốc.

    - Kiên quyết đấu tranh hạn chế ý đồ lấn chiếm của Trung Quốc ở biển Đông, đặc biệt ở vùng thềm lục địa của ta; áp dụng các biện pháp khôn khéo nhưng có hiệu quả ngăn chặn hoạt động của Trung Quốc mà không dẫn đến đối đầu về quân sự.

    - Xúc tiến việc xác định phạm vi của quần đảo Trường Sa để xem xét khái niệm “khai thác chung”, phá ý đồ Trung Quốc lợi dụng vấn đề này chia rẽ phân hoá giữa ta và ASEAN.

    - Chuẩn bị khả năng đưa ra toà án quốc tế hoặc trọng tài quốc tế vấn đề Trung Quốc vi phạm thềm lục địa của ta.

    - Đến một lúc nào đó ta nên tính đến khả năng mở cảng Cam Ranh thành một thương cảng cho các tàu quốc tế ra vào, kể cả tàu Mỹ, tạo sự có mặt của nhiều quốc gia ở khu vực biển Đông, ngăn ý đồ độc chiếm của một nước. Song tất nhiên ta phải có chính sách và luật pháp chặt chẽ để bảo đảm chủ quyền và an ninh quốc gia.

    “… Tư duy chính trị xơ cứng đã giam giữ nước ta trong cảnh khó khăn một thời gian dài. Chính vì thế, ngoại giao quãng thời gian này đã để lại trong tôi nhiều băn khoăn suy nghĩ về cái đúng, cái sai, cái nên làm và cái không nên làm…”
    Phụ lục 2
    ĐẠI SỰ KÝ 1975 - 1991
    1975

    01.02
    TNS M. Mansfield báo cáo trước Quốc hội Mỹ sau khi đi thăm Trung Quốc về: Trung Quốc tán thành để 2 nước Việt Nam tiếp tục tồn tại. Trung Quốc cho rằng một nước Campuchia thống nhất trung lập là điều chủ yếu trong một Ðông Dương ổn định.
    17.04
    Giải phóng Phnom Penh
    30.04
    Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Giải phóng Sài gòn
    04.05
    Quân Polpot tấn công đảo Phú Quốc và từ đó liên tiếp tấn công biên giới trên bộ và trên biển của ta
    05.05
    H. Kissinger: với việc mất Việt Nam, sẽ có sự sắp xếp lại lực lượng quan trọng ở Ðông Nam á, Campuchia và Lào sẽ là chư hầu của Hà Nội, còn Thái Lan và Inđônêxia sẽ tự động liên minh với Việt Nam. Trung Quốc sẽ giữ không cho Việt Nam có bất kỳ hành động quyết liệt nào
    ?.05
    Thông điệp miệng của ta nhờ Liên Xô chuyển tới Mỹ tỏ ý muốn hai bên có quan hệ tốt
    12.06
    Mỹ gửi đến Ðại sứ quán ta tại Paris thông điệp: "Về nguyên tắc, Mỹ không hận thù gì ViệtNam, đề nghị trên cơ sở đó tiến hành bất cứ quan hệ nào giữa hai bên. Mỹ sẵn sàng nghe bất cứ gợi ý nào đó Việt Nam đưa ra".
    11.07
    Thông điệp ta trả lời: nhắc Mỹ nghĩa vụ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh
    10.07 và 05.09
    Tiếp xúc giữa bí thư thứ nhất ÐSQ Việt Nam Ðỗ Thanh và bí thư thứ nhất ÐSQ Mỹ Pratt ởParis
    27 - 29.07
    Ðoàn đại biểu Ðảng Lao động Việt Nam do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn dẫn đầu đi thăm Campuchia
    09.08
    Vụ Watergate - Nixon từ chức. Phó tổng thống G.Ford lên thay
    11.08
    Tại Hội đồng Bảo an, Mỹ phủ quyết Việt Nam vào LHQ
    07.12
    G. Ford công bố "học thuyết Thái Bình Dương mới" gồm 6 phương hướng chính: sức mạnh Mỹ đã cân bằng lực lượng ở Thái Bình Dương, liên minh với Nhật, bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, quan hệ mạnh với ASEAN, giải quyết xung đột khu vực, hợp tác kinh tế trong vùng
    21.12
    Ðoàn hạ nghị sĩ Mỹ do G. V. Montogomery vào Hà Nội nhận 3 bộ hài cốt giặc lái Mỹ. Thủ tướng Phạm Văn Ðồng tiếp đoàn
    tháng 12
    H. Kissinger phát biểu ở Paris sau khi đi thăm Trung Quốc: Mỹ đang tính toán việc sử dụng Trung Quốc để hạn chế ảnh hưởng của Việt Nam ở khu vực
    1976

    10.01
    Mỹ thông qua Liên Xô thăm dò việc tiếp xúc với ta, song khẳng định không thực hiện Ðiều 21 (bồi thường chiến tranh)
    26.03
    H. Kissinger gửi công hàm cho bộ trưởng ngoại giao ta: Mỹ sẵn sàng thảo luận với ViệtNam để phát triển quan hệ mới giữa hai nước
    10.04
    Bộ trưởng Ngoại giao ta trả lời: nêu lại những vấn đề tồn tại giữa hai nước (điều 21 và vấn đề MIA). Trên cơ sở giải quyết những vấn đề đó sẽ bình thường hoá quan hệ với Mỹ
    07.05
    Tổng thống G. Ford bác kiến nghị của quốc hội Mỹ yêu cầu tạm thời ngừng cấm vận buôn bán với Việt Nam trong 6 tháng
    08.05
    Công hàm của ngoại trưởng Mỹ H. Kissinger gửi Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh: sẵn sàng mở cuộc thảo luận về việc thiết lập mối quan hệ mới giữa hai nước, song chỉ khi nào vấn đề MIA được giải quyết về thực chất thì mới có tiến bộ đi tới bình thường hoá quan hệ
    19.06
    Thông điệp của BNG ta phê phán Mỹ "đơn phương tuyên bố xoá bỏ Hiệp định", lẩn tránh nghĩa vụ đối với điều 21 đồng thời lại đòi Việt Nam thi hành điều 8b của Hiệp định: nhắc lại lập trường ta gắn 2 vấn đề với nhau. Bước đầu sẵn sàng gặp đại diện Mỹ ở Paris để trao đổi ý kiến
    19.07
    Mỹ gửi thông điệp trả lời đồng ý mở cuộc thảo luận tại Paris giữa người thứ 2 của hai sứ quán
    01.08
    Ta trao trả Mỹ tất cả 27 người Mỹ bị kẹt lại ở Nam Việt Nam sau ngày 30.4.75
    27.08
    Thông điệp của ta gửi Mỹ xác định người gặp (tham tán Trần Hoàn) và nói gặp (luân phiên giữa hai sứ quán tại Paris)
    Tháng 11
    Tổng tuyển cử Mỹ - Jimmy Carter (Dân chủ) trúng cử Tổng thống
    Tháng 12
    Ðại hội IV với luận điểm "3 giòng thác cách mạng trong thế tiến công"
    1977

    06.01
    Mỹ thông qua Liên Xô đưa ra kế hoạch 3 bước bình thường hoá quan hệ với Việt Nam: Việt Nam cho biết tin về MIA ở Việt Nam; Mỹ chấp nhận Việt Nam vào LHQ và sẵn sàng lập quan hệ ngoại giao cũng như bắt đầu buôn bán với Việt Nam; Mỹ có thể đóng góp khôi phục Việt Nam bằng cách phát triển buôn bán, cung cấp thiết bị và các hình thức hợp tác kinh tế khác
    11.01
    Ngoại trưởng C.Vance: Việc tiến tới bình thường hoá quan hệ Mỹ - Việt Nam là phù hợp với lợi ích của hai nước
    03.3
    Chính quyền J. Carter quyết định nới lỏng cấm vận với Việt Nam
    09.03
    Mỹ cho phép công dân Mỹ đi thăm Việt Nam, Campuchia, Bắc Triều TiênCuba, kể từ 18.3.77.
    17.03
    Uỷ ban của tổng thống Mỹ do Leonard Woodcock dẫn đầu sang thăm Việt Nam.
    30.04
    Polpot bắt đầu chiến tranh biên giới chống ta.
    03 - 04.05
    Vòng 1 đàm phán Việt Nam - Mỹ tại Paris về bình thường hoá quan hệ hai nước: Mỹ đề nghị lập ngay quan hệ ở cấp đại sứ, trao đổi sứ quán có quan hệ lãnh sự; Mỹ không cản Việt Nam vào LHQ; Mỹ có khó khăn về mặt pháp luật nên không thực hiện Ðiều 21 được mà hứa sẽ thực hiện khi có quan hệ, bỏ cấm vận buôn bán và xét viện trợ nhân đạo.
    02 - 03.06
    Vòng 2 đàm phán Việt - Mỹ tại Paris. Mỹ nêu lại các đề nghị đã nói ở vòng 1.
    19 - 20.12
    Vòng 3 đàm phán Việt Nam - Mỹ tại Paris, Mỹ đề nghị nếu hai bên chưa lập quan hệ ngoại giao đầy đủ thì có thể lập Phòng quyền lợi (Interest Section), nhưng như thế thì chưa bỏ cấm vận được. Song ta vẫn giữ lập trường "cả gói" 3 vấn đề: quan hệ ngoại giao, bồi thường và MIA.
    - tháng 12
    Liên Xô đưa quân vào Afghanistan - đỉnh cao của quá trình Liên Xô bành trướng, cả thế giới bên ngoài.
    31.12
    Chính quyền Polpot đơn phương cắt quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
    1978

    08.01
    Z.Brzezinski: Ðiều lý thú là đây là trường hợp đầu tiên của một cuộc chiến tranh qua tay người khác (proxy war) giữa Liên Xô và Trung Quốc, Việt Nam được Liên Xô ủng hộ và Campuchia được Trung Quốc ủng hộ.
    05.05
    Phó tổng thống Mỹ W.Mondale phát biểu khi đi thăm 5 nước ASEAN: "Mỹ sẽ đẩy mạnh việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì nó giữ thế ổn định khu vực: Chính sách của Trung Quốc ở Ðông Nam á về một số mặt là song hành với Mỹ. Mỹ đã đưa ra đề nghị hợp lý với Việt Nam và vẫn giữ lập trường thiết lập quan hệ mà không có điều kiện tiên quyết. Họ vẫn giữ lập trường là Mỹ trước hết phải cam kết viện trợ. Nhân dân, Quốc hội và chính quyền Mỹ không cho phép làm điều đó."
    11.05
    R.Oakley, trợ lý ngoại trưởng Mỹ: "Việt Nam, với 50 triệu dân, là quốc gia cộng sản lớn thứ 3 trên thế giới và mạnh nhất về quân sự ở Ðông Nam á. Thái độ Việt Nam với các nước khác là quan trọng trong các thập niên tới. Quan hệ ngoại giao và sự có mặt của Mỹ ở Hà Nội có thể phục vụ lợi ích bạn bè Mỹ ở châu á cũng như lợi ích của Mỹ và Việt Nam."
    19.05
    Ðặng Tiểu Bình tuyên bố: "Trung Quốc là NATO phương Ðông" (có công giữ 40 sư đoàn Liên xô tại biên giới Xô - Trung), "Việt Nam là Cuba phương Ðông."
    29.06
    Việt Nam tham gia khối COMEON.
    05.07
    Thứ trưởng ngoại giao Phan Hiền nói tại Tokyo: Việt Nam sẵn sàng bình thường hoá quan hệ với Mỹ không có điều kiện tiên quyết.
    0.05 (7?)
    Brzezinski cố vấn an ninh của tổng thống Mỹ đi thăm Trung Quốc.
    27.07
    Nghị quyết TƯ.09 (khoá IV): Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất. Mỹ là kẻ thù cơ bản và lâu dài, quyết tâm đánh đổ chế độ diệt chủng Polpot.
    21.08
    Ðoàn 7 hạ nghị sĩ Mỹ do G.V.Montgomery sang Việt Nam về vấn đề MIA.
    22 - 27.09
    Vòng 1 đàm phán Việt Nam - Mỹ (Nguyễn Cơ Thạch - R.Holbrooke) tại New york. Ta chấp nhận đề nghị của Mỹ đưa ra tháng 5.77, tức là bình thường hoá quan hệ không điều kiện. Việc ta chuyển đổi lập trường quá muộn nên không đem lại kết quả. Holbrooke nói: Mỹ coi trọng châu Á lo sợ việc Liên Xô đã cản trở Cam Ranh.
    01.10
    Việt Nam tuyên bố bác đề nghị của Polpot ngày 29.9.98, đòi Campuchia ngừng bắn và rút khỏi biên giới trước rồi mới có thể bắt đầu thương lượng.
    03.11
    Việt Nam và Liên Xô ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác.
    30.11
    R. Oakley gặp Trần Quang Cơ tại Nữu ước nói: Mỹ không thay đổi lập trường bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, nhưng phải chậm lại vì cần làm rõ 3 vấn đề Campuchia, hiệp ước Việt - Xô và vấn đề người di tản Việt Nam.
    15.12
    Trung Quốc và Mỹ ra thông cáo chung chínn thức công nhận nhau và thiết lập quan hệ ngoại giao từ ngày 1.1.79.
    16.12
    M.Mansfield đại sứ Mỹ ở Nhật: "chỉ sau khi những khó khăn giữa Trung Quốc và Việt Namđược giải quyết mới có lý do chính đáng để hy vọng giaỉ quyết quan hệ ngoại giao Mỹ - ViệtNam."
    1979

    07.01
    Ta giúp bạn đánh đuổi Polpot và giải phóng Phnom Penh.
    11.01
    Thành lập nước CHND Campuchia.
    29.01 - 04.02
    Ðặng Tiểu Bình đi thăm chính thức Mỹ, Hội đàm J. Carter - Ðặng
    16.02
    Carter nêu 6 nguyên tắc sử xự khi Trung Quốc xâm lược Việt Nam: không can thiệp trực tiếp, khuyến khích các bên kiềm chế, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam; xung đột không đe doạ lợi ích trước mắt của Mỹ; không vì Việt Nam xâm lược Campuchia mà đặt lại vấn đề bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc; quyền lợi đồng minh của Mỹ không bị đe doạ.
    17.02
    Trung Quốc tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta. "Dạy cho ViệtNam một bài học" (lời Ðặng Tiểu Bình).
    17.02
    Bộ ngoại giao Mỹ ra tuyên bố phản đối cả 2 cuộc xâm lược (Việt Nam vào Campuchia, Trung Quốc vào Việt Nam) và kêu gọi 2 bên rút quân ngay.
    18.02
    Chính phủ Liên Xô ra tuyên bố phản đối Trung Quốc xâm lược Việt Nam.
    19.02
    Ký hiệp ước hoà bình, Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Campuchia tại Phnom Penh.
    Cuối tháng 2
    Ðặng nói với các nhà báo ở Bắc Kinh: "Chúng tôi có thể dung thứ việc Liên Xô có ở ViệtNam 70% ảnh hưởng, miễn là 30% còn lại dành cho Trung Quốc".
    05.03
    Trung Quốc tuyên bố rút quân khỏi lãnh thổ Việt Nam.
    Tháng 3
    Trung Quốc tuyên bố huỷ Hiệp ước Hữu nghị, đồng minh tương trợ Trung - Xô ký 15.2.1950 giữa Chu Ân Lai và Krouschev dịp Mao thăm Liên Xô.
    Tháng 4
    Ðàm phán vòng 1 Việt Nam - Trung Quốc tại Hà Nội
    Tháng 4
    L. Brejnev làm TBT. Ðại hội ÐCS Liên Xô thứ 26
    07.10
    Sihanouk gửi 2 thư và 1 điện (ngày 7, 23/10 và 11/11). Ta không trả lời.
    Tháng 10
    Bộ Ngoại Giao phát hành cuốn "Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua".
    10.12
    LHQ quyết định vẫn để Khmer đỏ giữ ghế của Campuchia tại LHQ.
    1980

    05.01
    Hội nghị ngoại trưởng 3 nước Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 1 tại Phnom Penh. Ðàm phán vòng 2 Việt Nam - Trung Quốc tại Bắc Kinh. Không kết quả. Trung Quốc cắt cầu đàm phán. Từ đó đến cuối năm 1988, ta nhiều lần gửi công hàm hoặc thư đề nghị nối lại đàm phán, song Trung Quốc đều bác bỏ.
    29.7
    Ðại sứ Mỹ ở Thái Abramowitz: Mỹ không bao giờ công nhận chế độ Polpot; tuy nhiên gạt Polpot ra khỏi LHQ chỉ càng làm tăng vị thế của Việt Nam. Quan điểm của Mỹ và Trung Quốc về Campuchia có khác nhau. Mỹ nhìn vấn đề về mặt chiến lược, đặc biệt lo ngại biên giới Campuchia - Thái Lan.
    1981

    19.01
    Tổng thống mới R.Reagan: Quan hệ Mỹ - Trung dưới thời Carter là không có lợi. Mỹ phải trả giá.
    19.02
    Ðại sứ Mỹ ở Thái Abramowitz trao ta bản ghi nhớ: Ðáng tiếc Việt Nam, Liên Xô đã phá vỡ ổn định, ngạc nhiên việc Việt Nam cho Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh: không hài lòng việc giải quyết vấn đề MIA trong 2 năm rưỡi qua.
    18.05
    Nghị quyết 39 BCT: đấu tranh chống chủ nghĩa Mao trên mọi hình thái của nó; chống chủ nghĩa bành trướng bá quyền nước lớn; liên minh và hợp tác toàn diện với Liên Xô.
    13.07
    Hội nghị quốc tế về Campuchia ở Nữu ước. Ngoại trưởng Mỹ A.Haig nói Mỹ không có ý định bình thường hoá quan hệ với Việt Nam còn đang chiếm đóng Campuchia, làm mất ổn định Ðông Nam Á.
    12.12
    Ðặng Tiểu Bình tuyên bố với nghị sĩ Italia Colombo: "Cả Mỹ và Liên Xô đều là những tên bá quyền". Từ đó Trung Quốc chuyển từ "chống bá quyền Liên Xô" sang "chống bá quyền" của "hai siêu".
    1982

    14.01
    Sứ quán Mỹ ở Bangkok gửi message cho ta qua Lê Văn Hoá: Mỹ muốn một giải pháp chính trị về Campuchia. Mỹ không nhấn việc đòi Việt Nam rút quân ngay, rút hết mà chỉ đàm phán rút một phần và có 1 lịch rút quân. Một nước Việt Nam độc lập với Liên Xô và Trung Quốc là phù hợp với lợi ích của Mỹ. Muốn biết ý kiến Việt Nam về lực lượng giữ gìn hoà bình của LHQ.
    16 - 17.02
    Hội nghị 3 ngoại trưởng Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 5 tại Vientiane.
    24.03
    Brejnev tuyên bố ở Taskent: Liên Xô chưa hề phủ nhận chế độ xã hội chủ nghĩa đang tồn tại ở Trung Quốc. Mong muốn cải thiện quan hệ với Trung Quốc.
    07.07
    Hội nghị 3 ngoại trưởng Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 6 tại và Campuchia thoả thuận đi bước trước, quyết định sẽ rút một số quân Việt Nam khỏi Campuchia trong tháng 7.82 và có thể xem xét rút thêm căn cứ Thái và sự đáp ứng của Thái Lan.
    02.10
    Ðàm phán Xô - Trung lần thứ nhất. Trung Quốc đưa ra 5 điểm về Campuchia và quan hệ Trung Quốc - Việt Nam: Việt Nam tuyên bố rút quân vô điều kiện khỏi Campuchia; nếu Việt Nam quyết định rút hết quân khỏi Campuchia thì sau đợt rút quân đầu, Trung Quốc sẵn sàng đàm phán với Việt Nam về bình thường hoá quan hệ.
    ?.10
    R.Childress, cố vấn chính trị - quân sự Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ nói với Nguyễn Cơ Thạch: đề nghị đoàn chuyên viên cấp cao nhất vào Việt Nam để thảo luận vấn đề MIA. Mỹ không muốn Việt Nam rút quân Campuchia để Polpot quay trở lại.
    10.11
    Brejnev chết. Trung Quốc cử ngoại trưởng Hoàng Hoa sang viếng. Khi đi Ðặng dặn: phải khéo léo nói quan hệ hai nước xấu đi từ sau năm 50 để chỉ Kroutchev, từ sau năm 65 xấu đến mức nghiêm trọng để chỉ Brejnev; tránh nói tên.
    1983

    23.02
    Hội nghị cấp cao Việt Nam - Lào - Campuchia họp ở Viêng chăn. Tuyên bố của Việt Namvà Campuchia: hàng năm sẽ rút một số quân Việt Nam khỏi Campuchia; tất cả quân tình nguyện Việt Nam sẽ rút hết về nước khi mối đe doạ đối với CHND Campuchia chấm dứt.
    01.03
    Ðàm phán Xô - Trung lần thứ 2. Trung Quốc nêu việc Việt Nam chiếm đóng Campuchia là 1 trong 3 trở ngại cho bình thường hoá quan hệ Trung - Xô.
    01.03
    Bộ Ngoại Giao Trung Quốc: Việt Nam rút đơn vị đầu tiên khỏi Campuchia, Trung Quốc sẽ nối lại đàm phán.
    12.04
    Hội nghị bất thường 3 ngoại trưởng Việt Nam - Lào - Campuchia tại Phnom Penh tuyên bố rút quân Việt Nam lần thứ 2 vào tháng 5.83. Rút 1 binh đoàn.
    02.05
    Lễ tiễn quân tình nguyện Việt Nam rút đợt 2.
    19 - 20.07
    Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 7 tại Phnom Penh khẳng định: quân tình nguyện Việt Nam sẽ được rút hết khỏi Campuchia khi Trung Quốc chấm dứt đe doạ.
    1984

    28 - 29.04
    Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 8 tại Vientiane.
    Tháng 4
    Chiến dịch mùa khô đánh vào các Khmer đỏ trên đường biên giới Campuchia - Thái Lan.
    21 - 23.06
    Ðợt rút quân thứ 3 của quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia.
    1985

    -
    Liên Xô: Gorbachov lên, bắt đầu điều chỉnh chính sách đối nội, ngoại. Nhiều lần nói mong muốn cải thiện, quan hệ Xô - Trung, song không đả động đến "3 trở ngại", đặc biệt là việc rút quân Việt Nam khỏi Campuchia.
    08.01
    Nguyễn Cơ Thạch thư cho Ngô Học Khiêm đề nghị nối lại đàm phán.
    28 - 29.01
    Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 10 tại TP. Hồ Chí Minh tuyên bố: quân đội Việt Nam sẽ tiếp tục rút dần hàng năm và sẽ rút hết khỏi Campuchia vào năm 1990.
    21.01
    Ngô Học Khiêm thư trả lời: sau khi Việt Nam công khai cam kết và thực hiện rút quân khỏi Campuchia thì đàm phán mới có ý nghĩa thực tế.
    23.01
    Ngoại trưởng Trung Quốc Ngô Học Khiêm đi các nước Ðông Nam Á. Khi đến Singaporenói: "Trung Quốc sẽ dạy cho Việt Nam bài học thứ hai".
    02.04
    Ðợt rút quân thứ 4 của Việt Nam khỏi Campuchia.
    15.05
    Thứ trưởng ngoại giao Mỹ Armacost: Về vấn đề Campuchia, Mỹ sẽ để ASEAN, Trung Quốc đi trước, Mỹ muốn dùng vấn đề Campuchia để ngăn Trung Quốc và Liên Xô cải thiện quan hệ.
    1986

    23 - 24.01
    Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 12 tại Phnom Penh.
    07 - 10.04
    Ðàm phán Xô - Trung vòng 8 tại Matxcơva, Trung Quốc vẫn nêu "3 trở ngại", Liên Xô đề nghị gặp cấp cao (Gorbachov - Ðặng). Trung Quốc từ chối.
    28.05
    Ðợt rút quân tình nguyện Việt Nam thứ 5 khỏi Campuchia.
    08.07
    Nghị quyết 32 BCT: chuyển sang giai đoạn đấu tranh mới dưới hình thức cùng tồn tại hoà bình với Trung Quốc, ASEAN, Mỹ; giải quyết hoà bình vấn đề Campuchia.
    28.07
    Diễn văn của Gorbachov ở Vladivodstock nêu những nét lớn của chính sách đối ngoại mới của Liên Xô đối với châu á - Thái Bình Dương: xích dần lại với Trung Quốc, giải quyết "3 trở ngại" để bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (rút quân khỏi Afghanistan, chấm dứt xung đột biên giới Xô - Trung, giải quyết vấn đề Campuchia). Với Mỹ, Liên Xô có thể có "cử chỉ đáp ứng" (responsive gesture) về vịnh Cam Ranh nếu Mỹ rút các căn cứ quân sự ở Philippin.
    05 - 15.10
    Vòng 9 đàm phán Xô - Trung tại Bắc Kinh. 70% thời gian bàn vấn đề Campuchia.
    19.10
    Liên Xô bắt đầu rút quân khỏi Afghanistan.
    Tháng 12
    Ðại hội VI. Nguyễn Văn Linh được bầu làm TBT. Ðỗ Mười làm thủ tướng. Sửa Lời nói đầu của Ðiều lệ Ðảng, xoá chỗ nói về Trung Quốc là "kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất".
    1987

    07.02
    Vòng 10 đàm phán Xô - Trung tại Matxcơva. Trung Quốc lại nêu "3 trở ngại" cho việc bình thường hoá quan hệ Trung - Xô, trở ngại lớn nhất là việc "Việt Nam xâm lược Campuchia".
    Ðầu th. 3
    Ngoại trưởng Liên Xô Schevarnadzé đến Phnom Penh thúc đẩy giải quyết vấn đề Campuchia.
    26.03
    Bộ Ngoại Giao thành lập CP87 chuyên trách nghiên cứu giải pháp Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc.
    19 - 20.04
    Lê Ðức Thọ gặp Hun Xen, Heng Somrin và Chia Xim ở Phnom Penh, khuyên Campuchia thoả hiệp với diệt chủng Polpot, thực hiện "giải pháp Ðỏ".
    08.05
    Họp BCT về vấn đề Campuchia (sau khi Lê Ðức Thọ đi Phnom Penh, trước khi TBT Linh đi Liên Xô.
    20.05
    Bộ Ngoại giao kiến nghị BCT sửa Lời nói đầu của Hiến pháp chỗ nói về Trung Quốc (đến 27.8.88 mới thực hiện).
    10.06
    Phó tổng thư ký LHQ Ahmed chuyển tới ta 4 điểm của Ðặng Tiểu Bình.
    17.06
    Hun Xen (đi thăm Lào) nói với Ngoại trưởng Lào Phun: muốn liên hiệp với phái Polpot không có Polpot hơn là với Sihanouk với lý lẽ là bọn Polpot có lực lượng nhưng không có thế chính trị, còn Sihanouk ngược lại không có lực lượng nhưng có thế chính trị.
    26.06
    Nguyễn Cơ Thạch gặp đại sứ Trung Quốc chuyển thông điệp miệng của Thủ tướng Phạm Văn Ðồng gửi lãnh đạo Trung Quốc đề nghị mở đàm phán bí mật hai nước.
    29.07
    Thông cáo chung Việt Nam - Inđônêxia sau cuộc gặp Nguyễn Cơ Thạch - Mochtar tại TP. HCM. Thoả thuận dùng hình thức "cocktail party" để các bên liên quan gặp nhau bàn giải pháp Campuchia.
    22.08
    Thư của Ngô Học Khiêm gửi Nguyễn Cơ Thạch nói Trung Quốc chưa thể trả lời thông điệp của ta vì Trung Quốc không muốn chấp nhận việc đã rồi ở Campuchia.
    27.08
    Chính phủ CHND Campuchia công bố chính sách 5 điểm về hoà hợp dân tộc.
    02.10
    Thông điệp miệng của ta nhờ Liên Xô chuyển cho Trung Quốc nhân cuộc gặp vòng 11 Liên Xô - Trung Quốc tại Mạc-tư-khoa ngày 6.10.
    06.10
    Ðàm phán vòng 11 Xô - Trung tại Bắc Kinh. Ðưa công khai việc bàn vấn đề Campuchia vào thông cáo báo chí.
    29.11
    Ðợt rút quân thứ 6 của quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia.
    12.12
    Hội đàm Hun Xen - Sihanouk lần thứ 1 tại Fère - en - Taidenois (Pháp). Thông cáo chung thoả thuận: giải quyết xung đột Campuchia bằng biện pháp chính trị; vấn đề Campuchia do nhân dân Campuchia giải quyết; triệu tập Hội nghị quốc tế để bảo đảm thoả thuận giữa các bên Campuchia. Gặp lại vòng 2 ở Paris và vòng 3 ở Bình Nhưỡng.
    22.12
    Việt Nam và Campuchia tán thành gợi ý của Liên Xô để Liên Xô gửi thông điệp cho ngoại trưởng Trung Quốc đề nghị Liên Xô cùng Trung Quốc dàn xếp một cuộc gặp giữa CHND Campuchia và Khmer Ðỏ, Trung Quốc không đáp ứng.
    30.12
    BCT quyết định đổi mới quan hệ giữa ta với Lào và Campuchia, rút chuyên gia, cố vấn ta ở Lào và Campuchia giải tán đoàn chuyên gia Việt Nam ở Campuchia.
    1988

    20 - 22.01
    Vòng 2 Hun Xen - Sihanouk tại Paris. Không có thông cáo chung. Hai bên nhất trí: chế độ chính trị ở Campuchia do nhân dân Campuchia quyết định qua tổng tuyển cử có giám sát quốc tế; triệu tập hội nghị quốc tế về Campuchia theo kiểu Hội nghị Genève 1954 về Ðông Dương.
    20 - 29.01
    CubaAngola và trợ lý ngoại trưởng Mỹ họp ở Luanda đã thoả thuận việc rút toàn bộ quânCuba khỏi Angola.
    01.02
    Thư Sihanouk gửi thủ tướng Phạm Văn Ðồng: Mối quan tâm luôn luôn giành cho việc khôi phục quan hệ hữu nghị hai nước láng giềng anh em chúng ta. Như vậy thì giải pháp này sẽ tới gần.
    08.02
    Gorbachov tuyên bố quân đội Liên Xô sẽ rút khỏi Afghanistan trong 10 tháng kể từ ngày 15.5.88.
    14 - 16.03
    Ðụng độ giữa hải quân Việt Nam và hải quân Trung Quốc ở Trường Sa.
    20.05
    Nghị quyết 13 BCT: giải quyết vấn đề Campuchia trước 1990, phấn đấu bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc.
    26.05
    Bộ Ngoại Giao Việt Nam tuyên bố rút quân đợt 7 gồm 50.000 quân và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện; số quân còn lại sẽ rút sâu vào 30km trong lãnh thổ Campuchia dọc biên giới Campuchia - Thái Lan.
    Cuối th.5
    Họp cấp cao Xô - Mỹ Gorbachov - Reagan tại Matxcơva, có bàn vấn đề Campuchia.
    13 - 20.06
    Ðàm phán Xô - Trung tại Matxcơva. Hai bên bàn tỉ mỉ vấn đề Campuchia. Liên Xô rút ra 5 điểm đồng với Trung Quốc về vấn đề Campuchia.
    28.06
    Quốc hội ra nghị quyết sửa Lời nói đầu của Hiến pháp (bỏ câu "Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất"). Chính thức thông qua ngày 27.8.88.
    15.07
    Nguyễn Cơ Thạch gặp đại sứ Trung Quốc nêu một loạt biện pháp làm giảm căng thẳng quan hệ hai nước, đề nghị hai bên nối lại đàm phán ở bất cứ cấp nào.
    25 - 26.07
    Họp JIM 1 (Jakarta Infornal Meeting) tại Bô - go (Inđônêxia). Cuộc họp tiến hành làm 2 bước: bước đầu chỉ có 4 phái Campuchia; bước sau có thêm Việt Nam, Lào và 6 nước ASEAN. Mục đích: tạo một khuôn khổ cho các cuộc thảo luận không chính thức, giữa các bên liên quan trực tiếp và các nước hữu quan trong việc tìm kiếm một giải pháp toàn diện, đúng đắn và lâu dài cho vấn đề Campuchia. Cuộc họp đã khẳng định 2 vấn đề then chốt: việc rút quân Việt Nam trong khuôn khổ một giải pháp chính trị và việc ngăn chặn sự trở lại của chế độ diệt chủng Polpot.
    07.11
    Vòng 3 Hun Xen - Sihanouk tại Paris. Chủ yếu bàn chương trình nghị sự họp cấp cao 3 bên (Hun Xen - Sihanouk - Son San ngày 8.11.88).
    01.12
    Hoàn thành đợt rút quân Việt Nam thứ 7 khỏi Campuchia gồm 50.000 quân và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia.
    1989

    05.01
    TBT Nguyễn Văn Linh dẫn đầu đoàn đại biểu Ðảng và Chính phủ Việt Nam đi Phnom Penh dự lễ kỷ niệm 10 năm Quốc khánh CHND Campuchia.
    06.01
    Tuyên bố của Nguyễn Văn Linh và của Heng Somrin là sẽ rút hết quân Việt Nam khỏi Campuchia trong khuôn khổ một giải pháp chính trị vào tháng 9.89.
    09.01
    Cuba bắt đầu rút quân khỏi Angola theo Hiệp định 12.8.88 giữa CubaAngola và Nam Phi.
    09.01
    Ngoại trưởng Thái Siddhi Savetsila đến Hà Nội.
    16 - 19.01
    Ðàm phán Việt Nam - Trung Quốc cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước.
    01.02
    Ngoại trưởng Schevarnadzé đến Bắc Kinh hội đàm với Tiên Kỳ Tham về vấn đề Campuchia.
    15.02
    Liên Xô hoàn thành việc rút
    11.02
    Họp BCT bàn việc tách và giải quyết từng bước một mặt quốc tế và mặt nội bộ của vấn đề Campuchia; triển khai các diễn đàn Việt - Trung (vòng 2), JIM 2, Việt - Thái, Việt - Mỹ...
    16 - 18.02
    Họp trù bị (Working group) JIM 2. Ta đưa ra 3 bước rút quân Việt Nam khỏi Campuchia gắn với 3 bước chấm dứt viện trợ quân sự của nước ngoài cho các bên Campuchia.
    19 - 21.02
    Họp JIM 2. Khẳng định lại 2 vấn đề mấu chốt của giải pháp cho vấn đề Campuchia là rút quân Việt Nam trong khuôn khổ một giải pháp chính trị và ngăn ngừa sự quay trở lại chính sách và những hành động diệt chủng của chế độ Polpot; chấm dứt mọi sự can thiệp của nước ngoài và sự giúp đỡ về quân sự cho các phái đối lập Khmer.
    14.03
    Họp BCT: quyết định rút hết quân khỏi Campuchia vào cuối tháng 9.89; thúc đẩy diễn đàn Hun Xen - Sihanouk.
    22.02 - 03.03
    Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch thăm Singapo, Malayxia và Thái Lan.
    23.02
    Trung Quốc - Inđônêxia bình thường hoá quan hệ.
    25.02
    Mỹ - Trung Quốc: Bush đến Bắc Kinh gặp Ðặng Tiểu Bình.
    13.03
    Xô viết tối cao Liên Xô thông qua nghị quyết lập chức tổng thống Liên Xô Gorbachov được bàn giữ chức vụ này.
    15.03
    Tiếp và làm việc với Phó tổng thư ký LHQ Ahmed tại Hà Nội về vấn đề Campuchia.
    15.04
    Ba chính phủ Việt Nam, Campuchia, Lào ra tuyên bố: sẽ rút hết quân Việt Nam khỏi Campuchia tháng 9.
    30.04 - 01.05
    Quốc hội Campuchia họp phiên bất thường: sửa hiến pháp, đổi tên nước CHND Campuchia thành Nhà nước Campuchia (State of Campuchea), thay quốc kỳ
    02 - 03.05
    Vòng 4 Hun Xen - Sihanouk tại Jakarta. Sihanouk hoan ngênh việc đổi tên nước, quốc kỳ và nhiều sửa đổi quan trọng trong hiến pháp Campuchia; nói có thể chấp nhận về nước (nhưng khi về tới Bangkok, Sihanouk lại đổi ý. Từ đó, quan hệ Hun Xen - Sihanouk rất xấu)
    08 - 10.05
    Ðàm phán Việt Nam - Trung Quốc cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh. Trung quốc vẫn đòi ta thoả thuận về nguyên tắc thiết lập chính phủ liên hiệp 4 bên Campuchia do Sihanouk đứng đầu, đông kết và giảm hoặc giải thể lực lượng quân sự của các bên Về quan hệ 2 nước, lập trường của Trung quốc vẫn là giải quyết xong vấn đề Campuchia thì mới cải thiện được quan hệ với Việt nam; tạm thời chưa tính đến tiếp tục đàm phán với ta
    15 - 16.05
    Hội đàm cấp cao Trung - Xô (Gorbachov - Ðặng) tại Bắc kinh
    03 - 04.06
    Sự kiện Thiên An Môn
    04.06
    Ba Lan: Công đoàn Ðoàn kết thắng tuyệt đối tổng tuyển cử
    24.07/right>
    Vòng 5 Hun Xen - Sihanouk tại Paris. Không đạt thoả thuận nào. Sihanouk bác bỏ thoả thuận của JIM 1 và 2, đòi xoá SOC lập chính phủ 4 bên Campuchia
    30.07 - 30.08
    Hội nghị quốc tế về Campuchia tại Paris: việc rút quân Việt nam không còn là vấn đề lớn ở hội nghị mà vấn đề lớn nổi lên là Diệt chủng. Hội nghị không đạt được một giải pháp chính trị, bế tắc ở vấn đề chia quyền giữa các bên Campuchia trong thời kỳ quá độ. Song đã thông qua được tuyên bố chung ghi nhận hội nghị là một bước tiến có ý nghĩa và sẽ họp lại.


    07.08
    Gặp Thứ trưởng Lưu thuật Khanh (Phó trưởng đoàn Trung quốc tại PICC) ở Paris.
    07.08
    Hung: Ðảng Công nhân XHCN đổi tên; Hung gia nhập EC
    05.09
    TBT Nguyễn Văn Linh gặp Heng Somrin ở Hà nội chuyển lời Liên Xô khuyên Phnom Penhnên nhận chính phủ 4 bên gồm cả Khmer Ðỏ, do Sihanouk làm chủ tịch.
    21 - 26 - 09
    Ðợt rút quân Việt nam cuối cùng khỏi Campuchia
    30.09
    Họp BCT nhận định về kết quả hội nghị Paris về Campuchia
    07.10
    Kayson Phonvihan thăm chính thức Trung quốc đánh dấu việc bình thường hoá quan hệ Lào - Trung quốc. Ðặng nói với Kayson: Nếu Việt nam rút triệt để khỏi Campuchia thì sẽ bình thường hoá quan hệ với Việt nam.
    06.11
    Thông điệp miệng của Nguyễn Văn Linh gửi Ðặng Tiểu Bình: mong sớm bình thường hoá quan hệ với Trung quốc; mong sớm có dịp gặp lại Ðặng
    09.11
    Ðông Ðức: Bức tường Berlin sụp đổ, kết thúc chiến tranh Lạnh
    20.11
    Tiệp: Biểu tình lớn ở Praha. Husak từ chức. Lập chính phủ mới trong đó đảng Công sản chỉ là thiểu số.
    21.11
    5 nước thường trực HÐBA LHQ (P5) chấp nhận phương án giải quyết vấn đề Campuchia của Úc trong đó đề cao vai trò của LHQ ở Campuchia trong thời kỳ quá độ.
    28.11
    Thư Nguyễn Cơ Thạch gửi Tiền Kỳ Tham nhắc lại thông điệp miệng của Nguyễn Văn Linh gửi Ðặng và khẳng định lại "phía Việt nam sẵn sàng gặp phía Trung quốc ở cấp Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng Ngoại giao tại Bắc kinh hoặc Hà nội trong tháng 12.89 để bàn các bước bình thường hoá quan hệ hai nước".
    02.12
    TBT đảng Cộng sản Mã lai Trần Bình ký thoả thuân với chính quyền Malaysia và Thái Lan giải tán đảng Cộng sản và rút về sống ở Hadyai (nam Thái Lan)
    10.12
    Bulgaria: Biểu tình lớn ở Sofia
    12.12
    Ðại sứ Trung quốc thông báo trả lời của Trung quốc cho thông điệp ngày 6.11 của Nguyễn Văn Linh: đặt điều kiện cho việc mở lại đàm phán cấp thứ trưởng Ngoại giao với ta (Việt nam phải chấp nhận sự giám sát của LHQ về việc rút quân khỏi Campuchia; phải chấp nhận việc thành lập chính phủ 4 bên Campuchia do Sihanouk làm chủ tịch)
    1990

    09.02
    Ðại sứ Mỹ ở Thái Lan Dônhue chuyển thông điệp của Mý: gợp ý của Việt Nam về một cuộc gặp gỡ giữa bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch hoặc Thứ trưởng Trần Quang Cơ với trợ lý Ngoại trưởng Solômn là quá sớm. Hai bên cần làm rõ các vấn đề cần thảo luận và các khả năng lựa chọn, sau đó Solômn sẵn sàng gặp phía Việt nam. Mỹ hiện vẫn sẵn sàng tiếp tục trao đổi qua hai Ðại sứ ở Bangkok
    21.02
    Vòng 5 Hun Xen - Sihanouk tại Bangkok. Thoả thuận về nguyên tắc: sự có mặt của LHQ ở mức độ thích hợp của Campuchia là cần thiết; cần thành lập một cơ chế quốc gia tối cao để thực hiện chủ nhất dân tộc của Campuchia.
    25.02
    Nicaragua: Mặt trận Sandino thất bại trong tổng tuyển cử
    26.02 - 01.03
    Họp Hội nghị không chính thức về Campuchí (IMC) ở Jakarta. Ngoài thành phần như JIM (Campuchia, Việt nam, Lào và 6 nước ASEAN) còn có thêm đại diện Tổng Thư ký LHQ, Pháp và úc. IMC không đưa ra được tuyên bố chung vì Khmer Ðỏ dùng quyền phủ quyết.
    08.03
    Lê Ðức Thọ gặp Ðinh Nho Liêm và Trần Quang Cơ (và ngày 10.3 gặp Nguyễn Cơ Thạch) đưa ý kiến: cần có chuyển hướng chiến lược trong đấu tranh về vấn đề Campuchia; phải giải quyết vấn đề Campuchia với Trung quốc, không thể gát Khmer Ðỏ; không thể chấp nhận LHQ tổ chức tổng tuyển cử tại Campuchia, lập chính phủ 2 bên 4 phái Campuchia để tổ chức tổng tuyển cử
    10.04
    Họp BCT bàn đề án đấu tranh ngoại giao về vấn đề Campuchia trong tình hình thế giới có biến đổi. TBT Nguyễn Văn Linh, Lê Ðức Thọ, Ðào Duy Tùng, Ðồng Sỹ Nguyên nhấn mạnh cần liên kết với Trung quốc bảo vệ CNXH vì lợi ích chung của cả 2 bên.
    16.04
    Nguyễn Cơ Thạch đi Phnom Penh thuyết phục SOC mềm dẻo trong vấn đề diệt chủng, chấp nhận Khmer Ðỏ tham gia chính quyền liên hiệp trong thời kỳ quá độ...
    30.04
    TBT Nguyễn Văn Linh nói tại Tp HCM nhân dịp kỷ niệm 15 năm giải phóng Sài gòn: - Nên quên cuộc chiến tranh đi mặc dù đã có biến cố lớn trong quá khứ. - Việt nam cảm thấy có tình hữu nghị với nhân dân Mỹ. - Tôi muốn thấy bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ tuy đó là một tiến trình lâu dài
    03 - 08.05
    Vòng 3 đàm phán Việt - Trung cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh. Trung quốc nói roc ý họ về các vấn đề thuộc mặt nội bộ trong giải pháp Campuchia và đòi ta tán thành: SNC nên là một cơ cấu có tính chất chính quyền lâm thời, có chức năng lập pháp và hành chính; quân đội các bên Campuchia nếu chưa giải giáp thì tập kết vào một số điểm nhất định và giảm quân.
    20 - 21.05
    Họp 3 TBT Việt - Lào - Campuchia tại Hà nội nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ chủ tịch. Quyết định cần thực hiện "Giải pháp Ðỏ" để giải quyết vấn đề Campuchia.
    04 - 05.06
    Hun Xen và Sihanouk đại diện cho 2 chính phủ Campuchía họp tại Tokyo. Ký tuyên bố chung thoả thuận lập SNC với số thành viên 2 bên bằng nhau (6+6) tượng trưng cho chủ quyền quốc gia và thống nhất dân tộc Campuchia
    05.06
    Lần đầu TBT Nguyễn Văn Linh tiếp Ðại sứ Trung quốc Trương Ðức Duy
    06.06
    Bộ trưởng quốc phòng Lê Ðức Anh tiếp và mời cơm thân mật Ðại sứ Trung quốc
    11 - 13.06
    Vòng 4 đàm phán Việt - Trung (Trần Quang Cơ - Từ Ðôn Tín). Ta không chấp nhận việc can thiệp vào vấn đề nội bộ Campuchia như Trung quốc đề nghị. Ðàm phán không kết quả
    13.06
    Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tiếp Từ Ðôn Tín. Giọng điệu cao ngạo của Từ bị Nguyễn Cơ Thạch phê phán mạnh.
    19.06
    BCT họp đánh giá vòng 4 đàm phán Việt - Trung (vắng mặt TBT
    25.06
    Ðại sứ Trương Ðức Duy gặp Thứ trưởng Trần Quang Cơ chuyển thông điệp của Lãnh đạo Trung quốc (có sửa lại) gửi lãnh đạo Việt nam
    16 - 17.07
    Họp P5 về vấn đề Campuchia tại Paris
    18.07
    Ngoại trưởng Mỹ Baker tuyên bố chính sách mới của Mỹ về vấn đề Campuchia: Mỹ thừa nhận Việt nam đã rút quân khỏi Campuchia; chính quyền Phnom Penh hiện là lực lượng chủ yếu có khả năng ngăn Khmer Ðỏ trở lại cầm quyền. Vì vậy, Mỹ quyết định rút bỏ việc công nhận chính phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ (của 3 phái) tại LHQ; sẵn sàng thảo luận với Việt nam và SOC để thúc đẩy giải pháp cho vấn đề Campuchia.
    06.08
    Ðối thoại Việt - Mỹ vòng 1 (Trịnh Xuân Lãng - Kenenth Quinn) tại Nữu ước về vấn đề Campuchia và bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ. Mý yêu cầu ta: cam kết chấp thuận và thúc đẩy Campuchia chấp nhận văn kiện khung P5; tuyên bố hoan ngênh LHQ kiểm chứng rút nhân viên quân sự còn lại ở Campuchia; cho biết ý kiến về SNC và vai trò của LHQ ở Campuchia
    12.08
    BCT họp bàn vấn đề Campuchia. TBT Nguyễn Văn Linh kết luận: Những vấn đề tồn tại hiện nay thuộc nội bộ và chủ quyền của Campuchia phải do các đồng chi Campuchia tự quyết định. Việt nam tôn trọng những quyết định của các đồng chi Campuchia về những vấn đề này.
    12.08
    Thủ tướng Lý Bằng tuyên bố khi đến thăm Singapore: Hy vọng sẽ bình thường hoá quan hệ với Việt nam và hai bên sẽ thảo luận các vấn đề khác như tranh chấp Trường sa
    13.08
    Thứ trưởng Trần Quang Cơ tiếp Ðại sứ Trung quốc biểu thị hoan ngênh tuyên bố của Lý Bằng ở Singapore, nhắc lại mong muốn sớm có gặp cấp cao hai bên.
    27 - 28.08
    Họp P5 lần thứ 6 về Campuchia đi đến thoả thuận: những dàn xếp quân sự trong thời kỳ quá độ ở Campuchia; tuyển cử dưới sự bảo trợ của LHQ; bảo vệ nhân quyền; vấn đề bảo đảm quốc tế. Hoàn thành toàn bộ 5 văn kiện khung về giải pháp Campuchia
    29.08
    Ðại sứ Trung quốc gặp Nguyễn Văn Linh và Ðỗ Mười chuyển lời của Giang Trach Dân và Lý Bằng mời TBT Nguyễn Văn Linh, thủ tướng Ðỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Ðồng sang hội đàm bí mật với lãnh đạo Trung quốc tại Thành Ðô vào ngày 3.9.90
    30.08
    Họp BCT bàn về gặp cấp cao Trung quốc tại Thành đô
    31.08
    Ðối thoại Việt - Mỹ vòng 2 tại Nữu ước. Mỹ đề nghị Việt nam và Phnom Penh chấp nhận khung giải pháp Campuchia của P5, đề nghị SOC đi họp ở Jakarta để lập SNC trên cơ sở thoả thuận của P5. Mỹ coi đây là điều kiện để Mỹ bình thường hoá quan hệ với Việt nam và để Mỹ gặp Hun Xen
    01.09
    Xô - Trung họp cấp Ngoại trưởng tại Cáp Nhĩ Tân bàn về vấn đề Campuchia
    03 - 04.09
    Cuộc gặp cấp cao Trung - Việt tại Thành đô (thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên). Nguyễn Văn Linh chấp nhận công thức lập SNC của Trung quốc (6+2+2+2+1 và Sihanouk làm chủ tịch)
    05.09
    Nguyễn Văn Linh đi Phnom Penh thông báo lãnh đạo Campuchia về cuộc gặp Thành đô, thuyết phục Phnom Penh nhận công thức lập SNC của Trung quốc. Campuchia phản đối.
    07.09
    Ngoại trưởng Mỹ thông báo Mý quyết định mở đối thoại trực tiếp với Phnom Penh
    10.09
    BCT cử Trần Quang Cơ đi Jakarta theo dõi cuộc họp của các bên Campuchia bàn về việc thành lập SNC, dưới sự chủ trì của Pháp và Indonesia - 2 đồng chủ tịch PICC. Các bên Campuchia ra tuyên bố chung "chấp nhận toàn bộ văn kiện khung của P5 làm cơ sở cho việc giải quyết xung đột Campuchia", thành lập SNC.
    10.09
    Phó trợ lý Ngoại trưởng Mý K. Quinn thông báo: Mỹ quyết định nói chuyện với trưởng đoàn ta tại Ðại Hội đồng LHQ về bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
    14 - 18.09
    (Trần Quang Cơ) đi Bangkok để theo dõi tiếp cuộc họp của các bên Campuchia giải quyết nốt vấn đề chủ tịch SNC.
    17.09
    Các bên Campuchia họp tại Bangkok để hoàn tất việc lập SNC. Cuộc họp thất bại do không nhất trí trong việc cử đoàn đại biểu SNC đi dự Ðại Hội đồng LHQ và nhất là do SOC (Hun Xen) không chấp nhận việc cử Sihanouk làm chủ tịch và thành viên thứ 13 của SNC.
    20.09
    HÐBA LHQ thông qua nghị quyết 608 ghi nhận SNC đại diện cho Campuchia về mặt đối ngoại và giữ ghế của Campuchia tại LHQ.
    24.09
    Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp sang Trung quốc dự lễ khai mạc ASIAD. Thủ tướng Lý Bằng tiếp, nói về quan hệ 2 nước, nhận xét Trần Quang Cơ là "nhân tố tiêu cực" trong việc thúc đẩy giải pháp Campuchia
    29.09
    Nguyễn Cơ Thạch gặp Ngoại trưởng Mỹ Baker. Mỹ nói muốn bình thường hoá quan hệ với Việt nam trong khung cảnh một giải pháp chính trị về Campuchia, đồng thời tốc độ và qui mô bình thường hoá quan hệ tuỳ thuộc vào tiến bọ trong vấn đề MIA và các vấn đề nhân đạo khác.
    18.11
    BCT họp bàn về nguyên tắc đấu tranh về văn kiện chung P5 và vấn đề chức chủ tịch SNC.
    26.11
    P5 và Indonesia họp tại Paris thoả thuận dự thảo Hiệp định Paris về Campuchia
    21.12
    Họp SNC tại Paris với sự tham gia của 2 đồng chủ tịch PICC và đại diện Tổng Thư ký LHQ
    1991

    15 - 16.01
    (Trần Quang Cơ) Họp với bộ phận B1 Bộ Ngoại giao Campuchia chuẩn bị cho cuộc họp Uỷ ban phối hợp PICC. Nhận định về Trung quốc
    16.01
    Hun Xen nói với Trần Quang Cơ: khả năng năm 91 chưa có giải pháp chính trị. Cuộc gặpParis vừa qua chỉ là diễn đàn dư luận, không phải thương lượng. Vì vậy chúng tôi chưa nêu tách mặt nội bộ và quốc tế.
    24 - 25.01
    Họp BCT ở Tp HCM thảo luận "Ðường lối đối ngoại phục vụ thực hiện mục tiêu chiến lược của nước ta đến năm 2000" do Bộ Ngoại giao dự thảo và vấn đề Campuchia
    02.02
    (Trần Quang Cơ) xin rút khỏi danh sách đề cử TƯ khoá VII. Không được chấp nhận.
    24.02
    Nguyễn văn Linh gặp Heng Somrin tại Hà nội, lại thuyết phục Phnom Penh nhận công thức 6+2+2+2+1 để thúc đẩy chính sách hoà hợp dân tộc theo ý của Trung quốc trong cuộc gặp Thành đô ngày 3.9.90
    09.04
    Ðối thoại Việt - Mỹ vòng 5 tại Nữu ước. Trợ lý Ngoại trưởng R. Solomon đưa ra lộ trình 4 bước gắp quá trình giải quyết vấn đề Campuchia với các bước cải thiện quan hệ Mỹ - Việt
    13.04
    BCT họp nhận định tình hình thế giới và bàn chính sách đối ngoại. Yêu cầu phối hợp tốt hơn giữa 3 ngành Ngoại giao - Quốc phòng - An ninh trong nghiên cứu các vấn đề quốc tế.
    08.05
    Họp 3 ngành Ngoại giao - Quốc phòng - An ninh nhận định tình hình thế giới
    15 - 17.05
    BCT thảo luận bản dự thảo "Báo cáo về tình hình thế giới, việc thực hiện đường lối đối ngoại của đậi hội VI và phương hướng tới"; tiếp tục đánh giá về cuộc gặp cấp cao với Trung quốc tháng 9.90 tại Thành đô.
    15 - 19.05
    Giang Trạch Dân thăm Liên Xô - Chuyến thăm Liên Xô đầu tiên của cấp cao nhất Trung quốc trong 34 năm qua. Thông cáo chung 2 bên nói nhiều đến vấn đề Campuchia
    02 - 04.06
    Họp SNC tại Jakarta. Ngoài các bên Campuchia, có 2 đồng chủ tịch PICC (Pháp vàIndonesia), đại diện Tổng Thư ký LHQ. Sihanouk cũng có mặt với danh nghĩa là khách mời của Suharto. Cuộc gặp không đạt kết quả gì đáng kể.
    05.06
    Hun Xen và Sihanouk gặp riêng để thảo luận về chức Chủ tịch và Phó Chủ tịch SNC, kéo dài ngừng bắn tới khi có tổng tuyển cử, Sihanouk về Phnom Penh, kêu gọi ngừng viện trợ quân sự nước ngoài cho các bên Campuchia
    17 - 27.06
    Ðại hôi VII Ðảng CS Việt nam. Ðỗ Mười thay Nguyễn Văn Linh làm TBT, Lê Ðức Anh làm Chủ tịch nước. Nguyễn Cơ Thạch ra khỏi BCT và TƯ
    09.07
    Trần Quang Cơ gặp TBT Ðỗ Mười xin không nhận chức Bộ trưởng Ngoại giao
    10.07
    Ðỗ Mười gặp Ðại sứ Trung quốc đặt vấn đề cử đặc phái viên sang thông báo lãnh đạo Trung quốc về đại hội VII
    28.07 - 02.08
    Lê Ðức Anh và Hồng Hà sang Trung quốc với danh nghĩa "Ðoàn đại diện đặc biệt của TƯ đảng CS Việt nam" để thông báo lãnh đạo Trung quốc về Ðại hội VII đảng CS Việt nam. Cả hai đã gặp Từ Ðôn Tín xin lỗi (về vụ to tiếng với bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch)
    Tháng 8
    Quốc hội khoá 8 họp kỳ 9 thông qua danh sách chính phủ mới. Nguyễn Mạnh Cầm nhận chức Bộ trưởng Ngoại giao thay Nguyễn Cơ Thạch
    08 - 10.08
    Vòng 5 đàm phán Việt - Trung cấp thứ trưởng tại Bắc kinh về bình thường hoá quan hệ.
    09 - 14.08
    Ngoại trưởng mới Nguyễn Mạnh Cầm thăm Trung quốc
    23.10
    Hội nghị quốc tế về Campuchia tại Paris. Ký kết hiệp định hoà bình Campuchia
    05 - 10.11
    TBT Ðỗ Mười và Thủ tướng Võ văn Kiệt thăm chính thức Trung quốc. Thông cáo chung về bình thường hoá quan hệ hai nước
    14.11
    Sihanouk trở về Phnom Penh sau 13 năm lưu vong
    25.12
    Gorbachov từ chức. Cờ búa liềm trên nóc điện Kremli bị hạ xuống thay bằng lá cờ 3 màu của nước Nga đánh dấu việc Liên bang Xô viết chấm dứt tồn tại
    1993

    24.11 - 01.12
    Hội nghị giữa nhiệm kỳ của BCH TƯ khoá VII. (Trần Quang Cơ) Tự nguyện xin rut khỏi Trung Ương

    Lên đầu trang
    Vào giữa trang
    Xuống cuối trang