Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

Chuyên gia Nga nói về sức mạnh hải quân nhân dân Việt Nam

Việt Nam đã đạt được nhiều thành tự trong việc hiện đại hóa hải quân đủ sức để chống lại các mối đe dọa nhằm bảo vệ chủ quền lãnh hải.

Trang Topwar.ru hôm 21 tháng 5 đã đăng tải bài viết của chuyên gia quân sự Nga Sergei Yuferev bình luận về sức mạnh và quá trình hiện đại hóa của Hải quân nhân dân Việt Nam.
Bài viết rất dài, dưới đây là một số nội dung tóm lược:
Trước đây, Việt Nam không phải là một nước có lực lượng hải quân mạnh. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền an ninh quốc gia. Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã hoàn toàn thống trị các vùng biển miền Bắc Việt Nam và thực hiện đưa quân vào các vùng biển này một cách dễ dàng. Hiện nay, Hải quân Việt Nam có khoảng  33,8 nghìn người, trong đó có 1,7 nghìn cảnh sát biển.
Lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam được tổ chức thành các vùng hải quân,  với các hải đội tàu mặt nước bao gồm các tàu khu trục, tàu tuần tra và tàu hỗ trợ, 2 binh đoàn hải quân đánh bộ, hai lữ đoàn cảnh sát biển.

Trong trang bị của Hải quân Việt Nam vẫn còn các tàu khu trục nhỏ do Liên Xô xây dựng. Các đội tàu của Việt Nam chỉ mới được tổ chức ở qui mô nhỏ với các trang thiết bị đã quá lạc hậu. Tuy nhiên, gần đây, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện các biện pháp tích cực để nâng cấp các tàu chiến cũ và trang bị cho Hải quân các tàu chiến hiện đại.
Mô hình chiến hạm hiện đại do Nga sản xuất (ảnh minh hoạ)
 Các điều kiện tiên quyết để xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh
Hiện nay, khu vực Đông Nam Á là một trong những phát triển nhanh nhất và có vị trí địa chính trị quan trọng bậc nhất trên thế giới.

Đây là khu vực có nguồn nhân lực đồi dào với dân số trên 600 triệu người, là nơi có các tuyến đường biển quan trọng đi qua và đặc biệt là có vị trí chiến lược cho các hoạt động quân sự. Ngoài ra, đây cũng là khu vực rất dễ bùng nổ xung đột.
Xung đột ở đây có thể là xung đột nội bộ (bất ổn khu vực, xung đột giáo phái và sắc tộc dai dẳng), xung đột bên ngoài (vi phạm chủ quyền, tội phạm  buôn bán ma túy, khủng bố quốc tế), các mối đe dọa toàn cầu, và xung đột giữa các lực lượng đối lập ở một số quốc gia (cả trong và ngoài khu vực).
Yếu tố quyết định đến chính sách trong khu vực đó là tăng cường vai trò của các vùng biển quốc tế. Biển Đông và eo biển Malacca là những nhân tố đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế trong khu vực.

Đây cũng là những nơi tập trung các mối đe dọa quốc tế và an ninh quốc gia. Đông Nam Á nằm trên tuyến đường biển nối liền các khu vực có tiềm lực kinh tế, chính trị và quân sự như Đông Bắc Á, Ấn Độ, Trung Đông, Australia và nhiều nước thuộc khu vực Thái Bình Dương.
Đông Nam Á không chỉ trở nên có giá trị chiến lược quan trọng với Mỹ, Trung Quốc mà còn là khu vực cạnh tranh ảnh hưởng của các nước lớn khác như Ấn Độ, Nhật Bản,….  Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi mà các nước trong khu vực đều có xu hướng "mở rộng về phía biển" và đang ngày càng tập trung vào chính sách hàng hải.
Báo Nga viết, trong những năm gần đây, Việt Nam đã trở thành một trong những nước trong khu vực đẩy mạnh chính sách hàng hải. Để đảm bảo an ninh quốc gia và sự thịnh vượng của nền kinh tế đất nước với dân số trên 90 triệu người, Việt Nam đã chú trọng phát triển khả năng hàng hải đặc biệt là Hải quân. Hiện tại, việc phát triển của Hải quân Việt Nam đang trở thành một yếu tố quan trọng trong "trò chơi lớn" của 3 cường quốc Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ.
Xây dựng tiềm lực Hải quân là để bảo vệ chủ quyền đất nước
Việt Nam hiểu rằng đất nước không thể tham gia vào một cuộc chạy đua vũ khí hải quân với bất cứ quốc gia nào, đặc biệt là các nước lớn tại châu Á. Tuy nhiên, với kinh nghiệm của các cuộc chiến trước đó và để bảo vệ chủ quyền lãnh hải đất nước, Việt Nam phải xây dựng lực lượng hải quân đủ mạnh. Đó là lý do tại sao Hà Nội đã đi theo con đường xây dựng lực lượng hải quân hiện đại và hiệu quả. Đối tác chính trong việc hiện thực hóa các bước đi này là Nga và Ấn Độ - báo Nga nhận xét.
Tàu ngầm Kilo
 Đến nay, Việt Nam luôn kiên định con đường xây dựng một lực lượng hải quân hùng hậu  để bảo vệ các khu đặc quyền kinh tế cung như các khu vực ven biển của đất nước. Việt Nam có kế hoạch tăng cường tiềm lực hải quân để bảo vệ chủ quyền lãnh hải, chứ không phải tìm cách để tạo ra một cuộc xung đột với Trung Quốc, nước được cho là kẻ luôn muốn “thống trị” toàn diện trên biển Đông. 

Ngoài việc xây dựng hải quân để bảo vệ chủ quyền đất nước trước các mối đe dọa, Việt Nam cũng không ngừng đẩy mạnh phát triển hải quan đủ sức để chống lại các mối đe dọa bất thường trên  biển, trong đó bao gồm tội phạm buôn bán ma túy và buôn lậu. Và cũng để đề phòng trước các cuộc xung đột có thể với các nước trong khu vực, mặc dù khả năng này rất khó xảy ra.
Để đáp ứng các yêu nhiệm vụ đặt ra, Hải quân Việt Nam, từ một nước có các hải đội tàu nhỏ bé và lạc hậu, đến nay đã xây dựng các hải đội, hải đoàn với các tàu khu trục, tàu hộ tống, tàu ngầm và tàu tên lửa hiện đại đủ sức răn đe và sẽ tiếp tục hiện đại hóa hơn nữa.
Hộ vệ hạm tên lửa Gepard
 Dự án lớn nhất phải kể đến hợp đồng mua sáu chiếc tàu ngầm project  636 Varshavyanka, NATO gọi là Kilo, ký kết trong năm 2009 với chi phí 1,8 tỉ đôla. Chiếc tàu đầu tiên được xay dựng tại nhà máy đóng tàu Admiralty ở St Petersburg tháng 8 năm 2010. 

Ngoài ra, Nga cũng đang là đối tác chính trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng liên quan cho Việt Nam chẳng hạn như cơ sở cho tàu ngầm. Giá trị của dự án này ước tính khoảng 1,5 đến 2,1 tỷ đôla. Các tàu ngầm đầu tiên được chuyển giao cho Việt Nam vào năm 2013 và chiếc cuối cùng vào năm 2018.
Tàu ngầm phi hạt nhân hiện đại Varshavyanka đóng cho Hải quân Việt Nam sẽ được trang bị hệ thống chống tên lửa Club-S. Thân tàu được thiết kế với 6 khoang kín có vách ngăn chứa nước nằm ngang trong 2 lớp vỏ tàu.

Tàu ngầm lớp Kilo có lượng choán nước 3,95 nghìn tấn, vận tốc tối đa 20 hải lý/giờ và có khả năng bơi tự động liên tục 45 ngày đêm. Tàu có mức độ ồn rất thấp so với độ ồn tự nhiên của đại dương. Trên thân tàu ngầm được phủ một lớp cao su đặc biệt có khả năng giảm phản xạ sóng âm sonar và khả năng bị phát hiện bởi đối phương.

Các tàu ngầm này là một trong những lựa chọn công nghệ hải quân tốt nhất theo quan điểm “chi phí rẻ, hiệu quả cao”. Nếu cần thiết, hải quân Việt Nam sẽ có thể duy trì sự hiện diện thường xuyên của các tàu ngầm này trên biển rằng trong trường hợp xảy ra xung đột trong một thời gian nhất định.
Yếu tố quan trọng thứ hai trong xây dựng hải quân đó là việc hiện đại hóa tàu khu trục hạng nặng/nhẹ. Năm 2011, Nga đã bàn giao cho Việt Nam hai tàu tuần tra  Gepard 3,9 project 11661E, được sản xuất tại nhà máy Gorky ở Zelenodolsk.

Hợp đồng trị giá 350 triệu đôla đã được ký kết vào năm 2006. Sau khi nhận được 2 hộ vệ hạm Gepard, Việt Nam lại tiếp tục ký với Nga hợp đồng cung cấp thêm 2 chiếc nữa thuộc lớp tàu khu trục này. Khác với các tàu Gpard trước đó, theo yêu cầu của phía Việt Nam, các tàu sau này phải được trang bị các loại vũ khí chống tàu ngầm mạnh mẽ.
Tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển Bastion
 Tàu khu trục nhỏ Gepard 3.9 được phát triển trên nền tảng dự án tàu 11.660 của Nga. Dự án này được thành lập là nhằm để phát triển loại tàu tuần tra mới tìm kiếm cũng như theo dõi và kiểm soát bề mặt, dưới nước và các mục tiêu trên không. Gepard-3.9 có thể săn tìm, theo dõi, tác chiến hiệu quả chống các mục tiêu tàu nổi, tàu ngầm, máy bay; tuần tiễu, hộ tống, rải lôi, chi viện hỏa lực cho lực lượng đổ bộ. Tàu có thể hoạt động tác chiến độc lập hoặc trong đội hình biên đội tàu chiến thuật.
Khu trục hạm Gepard  đóng cho Hải quân tại Việt Nam được xây dựng bằng cách sử dụng công nghệ tàng hình hiện đại.

Tàu được trang bị hệ thống tên lửa chống hạm Uran gồm 4 bệ phóng, mỗi bệ có 16 quả tên lửa chống tàu nổi Kh - 35E, một súng 76,2 mm AK-176M đặt ở mũi tùi dùng để chống mục tiêu trên mặt nước, mặt đất và máy bay tầm thấp có tốc độ bắn 60-120 phát mỗi phút, tiêu diệt mục tiêu ở cự ly trên 15 km và bay cao 11,5 km, 3 tên lửa pháo phòng không cao tốc Palma-SU có thể đánh chặn đồng thời 6 mục tiêu ở cự ly 200 m đến 8 km và bay cao 3,5 km. Ngoài ra, tàu còn được trang bị các ống phóng ngư lôi 533 mm.

Hộ vệ hạm tên lửa Gepard có lượng giãn nước 2.100 tấn, tốc độ tối đa 28 hải lý (52 km/h), bơi ở chế độ tự động liên tục trong 20 ngày đêm. Tàu có thể mang theo trực thăng chóng ngầm Ka-28 hoặc Ka-31.
Khu trục hạm SIGMA.
Mùa thu năm 2011 Việt Nam đã bắt đầu các cuộc đàm phán với Hà Lan về việc cung cấp 4 tàu hộ tống /tàu khu trục SIGMA. Các nước như Indonesia và Moroc đã mua nhiều tàu hộ tống lớp Sigma từ Hà Lan, quốc gia hàng đầu thế giới về công nghệ đóng tàu.

Các khu trục hạm SIGMA có lượng giãn nước từ 1.700 đến 2.400 tấn tùy thuộc vào từng biến thể. Về trang bị vũ khí và đặc điểm kỹ thuật cũng tương tự như Gepard của Nga.
Nói về sức mạnh của Hải quân Việt Nam trong thời kỳ hiện nay không thể không nhắc tới hệ thống tên lửa di động ven biển Bastion-P mà Việt Nam mua lại từ Nga.

Mỗi tổ hợp tên lửa này được trang bị 36 siêu tên lửa chống tàu siêu âm Yakhont , có khả năng đánh trúng mục tiêu ở khoảng cách lên đến 300 km và luôn đặt các tàu của đối phương vào tình trạng báo động. Giai đoạn 2009-2011, Việt Nam đã nhận được hai hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển K-300P Bastion-P.
Một dự án lớn khác là hợp đồng cung cấp và cấp giấy phép sản xuất các tàu tên lửa Molniya project 1241RE với tổng chi phí khoảng 1 tỷ đôla. Trong những năm 1990, Việt Nam đã được bàn giao 4 tàu  Molniya, trang bị tổ hợp tên lửa Termit.

Năm 1993, Việt Nam đã được cấp giấy phép sản xuất các tàu tên lửa này với tổ hợp tên lửa chống hạm Uran. Chiếc Molnya đầu tiên trang bị hệ thống tên lửa Uran đã được chuyển giao cho Việt Nam trong năm 2007, và chiếc thứ hai vào năm 2008.

Theo hợp đồng đã ký, trong số 12 chiếc Molnya được Việt Nam đặt hàng thì hai chiếc tàu đầu tiên được đóng ở Nga còn10 chiếc còn lại sẽ được cấp phép xây dựng tại Việt Nam.
Hiện nay, tàu đầu tiên đã được khởi đóng tại Việt Nam theo tài liệu thiết kế và công nghệ do Viện thiết kế hải quân trung ương Almaz chuyển giao.

Nhà máy đóng tàu Vympel sẽ hỗ trợ Việt Nam đóng Molnya Project 1241.8 theo giấy phép của Nga. Vympel sẽ chế tạo các bộ phận và linh kiện để lắp ráp 6 tàu tên lửa Molnya Projekt 1241.8 đầu tiên và bắt đầu cung cấp linh kiện từ thành phố Rybinsk sang Việt Nam để lắp ráp 6 tàu trong năm nay theo hợp đồng trị giá 30 triệu đôla và sẽ tiếp tục đến năm 2015.
Ngày nay, Hải quân Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi và phát triển các hải đội tàu từ nhỏ yếu lạc hậu lên các hải đội tàu mạnh mẽ và cực kỳ hiện đại. Đến cuối thập kỷ này, Việt Nam sẽ có một hạm đội hùng hậu đủ sức bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là đối với chủ quyền tuyên bố trên Biển Đông.
Nguồn Giaoduc.net.vn

DK1 vững vàng giữa muôn trùng sóng gió

Cùng với sự phát triển của đất nước, Nhà giàn DK1 - Cột mốc chủ quyền Tổ quốc giữa đại dương đã và đang khoác lên mình những diện mạo mới. Và sự thật, dù ở nơi đầu sóng ngọn gió ấy vẫn còn không ít khó khăn trước mắt, thế nhưng các anh - những người lính Nhà giàn vẫn luôn kiên cường bám trụ. 

DK1 - Nơi gửi trao niềm tin và ước vọng
Có lẽ, giữa đại dương bao la, giữa muôn trùng con sóng bạc đầu, niềm tin, ước vọng được hiến dâng cả cuộc đời của mình cho sự nghiệp bảo vệ chủ quyền Tổ quốc trên biển của các anh – những người lính Nhà giàn DK1 đã và đang thực sự thăng hoa.
 Đưa ra nhận định này vì lẽ, trong chuyến công tác thăm và làm việc tại Nhà giàn DK1 ở thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), tôi hơn một lần nghe những lời bộc bạch ánh lên chất thép của người lính, của bộ đội cụ Hồ “còn biển còn ta, còn ta còn nhà giàn DK1”. Có bão tố, có mưa sa, có những cột sóng dựng cao tựa vách núi… nhưng các anh vẫn không chùn bước, các anh vẫn luôn ca vang bài ca người lính kiên trung, anh hùng bất diệt.
Nhà giàn DK1 luôn sừng sững giữa biển khơi.
Trong buổi trưa đầu tháng 5/2012, sóng cứ đua nhau dội vào các góc trụ của Nhà giàn DK1/16. Vừa cùng đồng đội chuyển những món quà chở nặng nghĩa tình do Đoàn công tác trên tàu HQ996 đem từ đất liền ra, Thiếu úy Hoàng Đình Bình với đôi mắt ánh thép, nước da đen sạm hồ hởi cho biết mình năm nay mới 26 tuổi. Quê ở mãi tận huyện Nam Sách (Hải Dương). Sinh ra trong một gia đình có 3 anh em. Bình là thứ 2.
Ngay từ thuở nhỏ, ước mơ của Bình không gì khác đó là mong mỏi một ngày không xa được khoác áo lính, cùng bộ đội bám trụ, giữ vững chủ quyền biển đảo, thềm lục địa của Tổ quốc. Sớm mang theo hoài bão thế nên sau khi tốt nghiệp cấp 3, cậu thanh niên thích mặc áo lính ấy đã đăng ký thi vào Trường Sĩ quan lục quân I (Bộ Quốc phòng). Và cái ngày nhận được giấy báo trúng tuyển đại học, Bình đã thốt lên: “Ước vọng của con đã dần thành hiện thực”. Sau một thời gian theo học, tháng 10/2010, học viên Hoàng Đình Bình đã làm lễ tốt nghiệp ra trường.
“Ngay sau khi tốt nghiệp, em được điều động đi lính Hải quân và ra nhận nhiệm vụ tại Nhà giàn DK1. Lúc đấy, trong em bỗng dâng trào một cảm xúc lâng lâng, thật hạnh phúc. Hình ảnh, sinh hoạt nơi Nhà giàn DK1 sừng sững giữa biển khơi sẽ không chỉ còn trong trí tưởng tượng của em nữa”.
Bình tâm sự, những ngày đầu khi ra nhận nhiệm vụ tại DK1 – Cột mốc chủ quyền Tổ quốc giữa đại dương, mọi thứ đều mới lạ. Nó khác xa so với cuộc sống ở đất liền. Thế nhưng, dần dà, với niềm tin và đặc biệt, cảm giác được dâng hiến tuổi thanh xuân cho nhiệm vụ thiêng liêng bảo vệ chủ quyền biển đảo, thềm lục địa của Tổ quốc đã không để sự xa lạ, bỡ ngỡ xuất hiện. Và có lẽ cũng chính vì dành hết thời gian cho nhà giàn nên đến nay, người lính có đôi mắt ánh thép với nụ cười duyên này vẫn… chưa có người yêu.
“Chuyện có người yêu, lập gia đình cứ để sau này, trước mắt em cứ nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ nơi Nhà giàn cái đã…”, dựa vào lan can, Thiếu úy Bình nhoẻn miệng cười.
Tất cả vì… chủ quyền biển đảo thiêng liêng
Giống Hoàng Đình Bình, tâm sự với tôi, Trung úy Nguyễn Đình Dũng, quê ở huyện Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh) cũng không giấu được niềm hân hoan tự đáy lòng của mình. Người lính trẻ này luôn đau đáu một tâm nguyện được khoác áo lính, nhận nhiệm vụ nơi biển đảo. Chẳng thế mà tháng 8-2011, sau 4 năm học Trường Sĩ quan lục quân I, cầm quyết định tốt nghiệp đại học trên tay, cậu học viên sĩ quan trẻ đã tự nguyện xin nhận nhiệm vụ tại Nhà giàn DK1.
Với những tân binh trẻ, hoài bão, ước vọng trong sáng và đầy nhiệt huyết là vậy. Còn đối với những người lính Nhà giàn có “thâm niên” thì sao? Vâng, thật khó có ngôn từ nào tả hết. Thiếu tá Nguyễn Văn Hùng – Chỉ huy trưởng Nhà giàn DK1/17 năm nay 48 tuổi, thế nhưng thời gian khoác áo lính Hải quân, bám trụ nhà giàn cũng đã được 23 năm. Nếu đưa ra các tiêu chí để lập bảng thứ tự về những người lính Hải quân nhận nhiệm vụ ở Nhà giàn DK1, thì với anh, Thiếu tá Hùng có lẽ sẽ được đánh số trong tốp đầu. Để lại vợ cùng 2 đứa con ở quê nhà, người lính kiên trung này luôn dốc lòng, tận tụy với công việc để quyết thực hiện cho kỳ được lý tưởng “Gắn bó cả cuộc đời mình cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”.
Ở anh, dẫu đã gắn trọn gần nửa đời mình cho nghiệp lính Hải quân, thế nhưng, khi nói về Nhà giàn DK1, về cuộc sống, nhiệm vụ ở nơi biển khơi rộng lớn, niềm hoan hỉ vẫn lộ rõ trên khuôn mặt anh như cái ngày mà anh mới làm tân binh, mới ra “đầu quân” cho Nhà giàn vậy. Cũng phải thôi, sự nhiệt huyết, tinh thần “tất cả vì DK1, vì cột mốc chủ quyền nơi muôn trùng sóng” đã ăn sâu vào trong tâm khảm của anh, của những người lính nhà giàn DK1.
Ấy thế cho nên, dù phong ba, dù bão táp, nơi nhà giàn ấy vẫn luôn có hình bóng các anh… Các anh mãi tiếp nối truyền thống đoàn kết dân tộc, ca mãi bài ca những người lính kiên trung, anh hùng bất diệt.
Nguồn CAND

Chủ Nhật, 27 tháng 5, 2012

Sức đề kháng của Asean trước ” thuốc thử ” Trung Quốc

Tại sao bàn tay của chúng ta không nắm lại thành sức mạnh mà cứ xòe ra để kẻ mạnh lợi dụng bẻ hết ngón này đến ngón khác?

Đã đến lúc ASEAN phải đổi mới phát triển
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập năm 1967 với sự tham gia lúc đầu của 5 nước: Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Singapore và Philippines.
Mục tiêu của ASEAN là phát triển kinh tế và văn hóa thông qua những nổ lực hợp tác chung giữa các thành viên, trên tinh thần duy trì hòa bình và ổn định khu vực.
Bức ảnh chụp hai tàu hải giám của Trung Quốc gần bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham trong tháng trước. Ảnh: AFP
Trong giai đoạn đầu, ASEAN là một tổ chức lỏng lẻo, chưa có vị trí trên trường quốc tế.
Sự khởi sắc của ASEAN được đánh dấu từ Hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp tại Bali (Indonesia) với việc kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (gọi tắt là Hiệp ước Bali).
Hiệp ước Bali xác định những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước như: Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực đối với nhau; Giải quyết các bất đồng hay tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; hợp tác phát triển có hiệu quả trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội.
Từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước, ASEAN tiếp tục mở rộng thành viên của mình. Năm 1992 Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali và năm 1995 trở thành thành viên chính thức.
Năm 1999, ASEAN là tổ chức có 10 thành viên gồm tất cả các nước ở Đông Nam Á.

Tính thống nhất và sự đoàn kết trong ASEAN
Các thành viên của ASEAN thì chỉ có một điểm chung là các nước nhỏ và chỉ trừ Thái Lan là chưa là thuộc địa của ai (chẳng qua, trong phân chia, các nước lớn thỏa thuận với nhau coi Thái Lan là vùng đệm) còn lại đều đã từng là thuộc địa của đế quốc trong thời gian dài.
Và, vì thế, nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển là đương nhiên. Cho nên, tiếng nói của ASEAN trên trường quốc tế không có nhiều trọng lượng.
Sự khác biệt giữa các thành viên thì lại rất nhiều, đặc biệt là sự khác nhau về chế độ chính trị.
Chính sự khác biệt này, các thành viên, tất yếu sẽ có những mối quan hệ, tương tác với bên ngoài vì lợi ích quốc gia khác nhau, nên khi đặt vào trong tổ chức của ASEAN thì độ “kênh” quá lớn. Giống như những hòn đá đầy góc cạnh thì không thể xếp thành khối được trừ phi mài bớt các góc cạnh ấy đi.
Sức mạnh của một tổ chức biểu hiện bởi sự đoàn kết và tính kỷ luật. Nhưng khi trong một tổ chức mà không thống nhất về quyền lợi, không thống nhất về ý chí và hành động thì rõ ràng là thiếu sự đoàn kết nhất trí.
Trong khi đó biện pháp chế tài, trừng phạt các thành viên vi phạm không có, nói cách khác kỷ luật không nghiêm, ai thích làm gì thì làm…
Một tổ chức mà thiếu sự đoàn kết, tổ chức lỏng lẻo thì làm sao có thể là mạnh được?
Hãy xem Thái Lan và Campuchia. Nguyên tắc quan hệ của các thành viên trong khối theo Hiệp ước Bali là: Giải quyết các bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực đối với nhau…
Thế nhưng gần đây, 2 thành viên này đem đại bác ra nói chuyện với nhau. Mức độ quyết liệt được Thủ tướng Campuchia coi đó là một cuộc chiến tranh biên giới giữa 2 nước.
Đặc biệt gần đây, trước việc Trung Quốc thi hành chính sách của mình trên biển Đông, với hành động chèn ép, bắt nạt, đe dọa dùng vũ lực hòng đoạt gần trọn biển Đông, gây nên tình hình căng thẳng, lo ngại bất an của các nước thành viên trong ASEAN thì ASEAN càng bộc lộ sự không đoàn kết của mình.
Các nước không có tuyên bố chủ quyền trên biển gây tranh chấp với Trung Quốc thì im lặng, mặc cho Trung Quốc đe dọa, tự tung tự tác với các nước có tuyên bố chủ quyền. Tuy nhiên, im lặng cũng còn tốt, không những thế, có những nước thành viên vì lợi ích quốc gia lại quay sang ủng hộ Trung Quốc.
Cuộc tranh chấp bãi cạn Scarborough giữa Philippines và Trung quốc đang diễn ra căng thẳng, quyết liệt, có thể dẫn đến xung đột quân sự bất cứ lúc nào. Philippines đang chịu một sức ép cực lớn bởi Trung Quốc từ lời lẽ đe dọa dùng vũ lực cho đến những hành động sẵn sàng dùng vũ lực.
Dư luận tiến bộ trên thế giới coi hành động của Trung Quốc là chèn ép, cậy thế nước lớn, có tham vọng phi lý, đều đứng về phía Philippin. Trong khi đó ASEAN im lặng. Duy nhất chỉ có Việt Nam là không im lặng.
Chính phủ Việt Nam tuyên bố: “Việt Nam hết sức quan tâm, lo ngại về tình hình tranh chấp bãi cạn Scarborough… các bên liên quan cần kiềm chế, giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 và tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông và khu vực”.
Tuyên bố này có điểm đặc biệt là nó cũng chính là mục đích, yêu cầu của Philippines  khi đề nghị cách giải quyết tranh chấp với Trung Quốc (Trung Quốc biết đuối lý nên không chấp nhận).
Rõ ràng, đây là sự ủng hộ Philippines về mặt pháp lý, tinh thần và về cách giải quyết. Có thể nói là rất khôn khéo, rất bản lĩnh của Việt Nam.
Ngạn ngữ Việt Nam có câu: “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi” và cũng có câu: “Chơi với dao có ngày đứt tay”, các thành viên trong ASEAN chắc cũng có câu tương tự. Lẽ ra họ phải biết rằng, cái “lợi ích quốc gia” mà họ có được từ Trung Quốc không phải được phát cho không.
Trung Quốc chưa và không bao giờ có cách hành xử như vậy. (Philippines đã từng chống quan điểm của Việt Nam và Malaysia, đi theo quan điểm của Trung Quốc và nay thì…như đã biết)
Với tính thống nhất không cao, sự đoàn kết nhất trí không có, kỷ luật lỏng lẻo, lại nghèo và nhỏ, ASEAN không mạnh và không là chỗ dựa như ta tưởng và mong đợi cho bất kỳ một thành viên nào.
Vì vậy Trung Quốc vốn coi ASEAN không ra gì, thậm chí ngay cả những điều họ đã đặt bút ký như DOC cũng như để mua vui. Họ chuyên lợi dụng để biến thành diễn đàn cho họ.
Đổi mới để phát triển hoặc tồn tại không bền vững là sự lựa chọn bắt buộc với các thành viên trong tổ chức này.

Liên minh các quốc gia có tuyên bố chủ quyền trên biển.
Trước sự chèn ép, bắt nạt, cậy thế nước lớn, không còn cách nào khác, các nước nhỏ có cùng lợi ích trong ASEAN hãy liên minh lại với nhau tạo thành “nhóm lợi ích”. Đó là biện pháp tự cứu mình trước.
Điều gì sẽ xảy ra khi những nước có tuyên bố chủ quyền trên biển Đông xây dựng một hiệp ước phòng thủ chung để bảo vệ vùng biển của mình trên cơ sở Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982? Chắc chắn sẽ tạo nên thế và lực rất lớn mà các nước lớn không thể coi thường. Đặc biệt là thế trận.
Với thế địa lý của những nước có tuyên bố chủ quyền, nó tạo ra một thế trận tấn công vô cùng hiểm hóc, liên hoàn không những trên phương diện quân sự mà cả kinh tế. Bất kỳ một nước lớn nào cũng sẽ không dám mạo hiểm.
Muốn vậy, các nước có tuyên bố chủ quyền phải thống nhất nhận thức tư tưởng là: Trong giải quyết tranh chấp quốc gia này hay quốc gia kia có thể mất chút này chút nọ nhưng chúng ta cùng được và được rất nhiều, còn hơn là chúng ta tỵ nạnh nhau để bị mất sạch.
Để có thể liên minh, hợp tác…thì điều trước tiên các nước có tuyên bố chủ quyền phải giải quyết  ổn thỏa việc tranh chấp với nhau bằng cách căn cứ vào Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982. Có thể dùng Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc (CLSC) làm trọng tài hoặc giám sát.
Đây là điều kiện rất thuận lợi vì phù hợp với chủ trương, nguyên tắc giải quyết tranh chấp trên biển của các nước có tuyên bố chủ quyền, trừ Trung Quốc.
Vậy, tại sao chúng ta không ngồi lại cùng nhau để giải quyết chuyện này? Tại sao bàn tay ta không nắm lại thành quả đấm mà cứ xòa ra để kẻ mạnh cứ lần lượt bẻ hết ngón này đến ngón khác?
Sẽ rất khó khăn khi ASEAN thống nhất với nhau để ra một bản Tuyên bố về tình hình tranh chấp trên biển. Sự khó khăn càng lớn khi bản Tuyên bố, nếu có này, được Trung Quốc chấp thuận. Vì thế, những vấn đề nào dễ thống nhất ta làm trước, chuẩn bị sẵn sàng mọi tình huống.
Khi chúng ta đã thỏa thuận với nhau, được CLSC công nhận thì có nghĩa chúng ta đã hoàn chỉnh về mặt pháp lý. Và chúng ta có thể bắt đầu “cùng nhau” từ đây, xây dựng một tổ chức nhỏ trong lòng một tổ chức lớn ASEAN.
Có thể đó là một tổ chức các quốc gia có tuyên bố chủ quyền biển mà trong đó sự ràng buộc có thể là Hiệp ước, Hiệp định hoặc các Tuyên bố chung…tùy theo tình hình diễn biến để xác định nội dung.
Thời gian không chờ đợi chúng ta.
Theo (Phunutoday)

Bàn về cách gọi "ngư dân Trung Quốc"

Sự khác biệt giữa các ngư dân Trung Quốc và ngư dân của các nước khác là gì? Ngư dân của các nước láng giềng khác là thường dân, và đánh bắt thủy sản là sinh kế của họ. Ngư dân Trung Quốc  được coi là một lực lượng để đối phó với các nước láng giềng trong tranh chấp biển, hải đảo.

Đe dọa, ép buộc ngư dân của các nước láng giềng, thậm chí để cướp giết người va chạm với cảnh sát biển, tàu tuần tra ..., xua đuổi  tàu đánh cá ngư dân của các nước láng giềng, vậy "ngư dân Trung Quốc" được gọi là "ngư dân"?

Ngày nay, ngư dân Trung Quốc, đã trở thành một lực lượng để cướp nguồn tài nguyên biển cho Trung Quốc một lực lượng với hành vi hung hăng kiêu ngạo và chuyên quyền. Với công cộng quốc tế, cứ mỗi lần va chạm, có vẻ như rằng họ là ngư dân, tạo ra cảm giác như bị bắt nạt. Có thể nói một cách ngắn gọn về hành động của họ ("ngư dân Trung Quốc") là: vừa ăn cướp vừa la làng.

Theo cá nhân tôi, để cho thế giới nhìn thấy khuôn mặt thật của Trung Quốc, chúng ta nên đặt cho ngư dân Trung Quốc một cái tên mới, một từ phù hợp với bản chất của họ: ngư tặc Trung Quốc. Trong mỗi tin tức công bố nên ghi như vậy, chúng ta cần phải nói rằng đó là những " ngư tặc Trung Quốc " vừa ăn cướp vừa la làng để cho thế giới thấy được bản chất của vấn đề.
Tham khảo từ : http://bbs.tiexue.net/
(tên  "ngư dân Trung Quốc" đã được thay theo quan điểm của riêng admin)
----------------------------------------------------------------------
Theo bạn "ngư dân Trung Quốc" nên gọi là gì cho đúng ?

Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

Việt Nam chế tạo thành công rô-bốt phục vụ mục đích dân sự và quân sự

Nhóm nghiên cứu thuộc Học viện Kỹ thuật quân sự do PGS.TS Chu Anh Mỳ, Trưởng Trung tâm công nghệ chủ trì đã nghiên cứu chế tạo thành công nhiều loại rô-bốt có khả năng ứng dụng trong dân sự và quân sự.
Rô-bốt chiến trường

Rô-bốt leo cầu thang và quan sát trong nhà là sản phẩm có khả năng ứng dụng trong trinh sát; phát hiện, di chuyển các vật lạ nguy hiểm, độc hại. Với kích thước 1000x600x500mm; hệ thống cơ khí được thiết kế vững chắc, ổn định và hệ thống điều khiển tin cậy, rô-bốt có khả năng leo lên, leo xuống các loại cầu thang thông dụng; di chuyển linh hoạt qua các địa hình không bằng phẳng (vượt vật cản có chiều cao tối đa 210mm, độ dốc lớn nhất 300, chiều rộng rãnh tối đa 400mm). Rô-bốt có khả năng di chuyển với vận tốc trung bình là 0,4m/s (vận tốc tối đa là 0,8m/s); có thể rẽ phải, rẽ trái, tiến, lùi, dừng một cách linh hoạt; quan sát được xung quanh nhờ các camera không dây và gửi ảnh về giao diện máy tính tại vị trí điều khiển; ghi được video qua camera với khoảng cách tối đa 300m… Rô-bốt leo cầu thang và quan sát trong nhà sử dụng nguồn DC chuyên dụng, có cấu trúc mở để sẵn sàng tích hợp thêm các cơ cấu chấp hành, cảm biến cũng như các mô-đun công tác khác.
Rô-bốt phun cát đã được nhóm nghiên cứu thiết kế, chế tạo và thử nghiệm thành công. Đây là sản phẩm dùng để làm sạch bề mặt các tấm thép phục vụ công nghiệp đóng tàu. Rô-bốt phun cát là sự kết hợp của tay máy 4 bậc tự do với mô-đun di chuyển. Vòi phun cát được gá theo tay máy. Tay máy gồm 3 khớp quay và 1 khớp tịnh tiến. Mô-đun di chuyển có kết cấu 6 bánh lốp nhằm tăng khả năng bám, ổn định khi di chuyển trên nền cát dày, không bằng phẳng. Bộ điều khiển của rô-bốt được thiết kế tối ưu, gồm trung tâm tính toán và xử lý tín hiệu (CPU) và các cụm mạch lực (driver). Các hệ thống phát động (motor), dẫn động, cảm biến… được tính toán  lựa chọn theo chuẩn rô-bốt công nghiệp. Vị trí của rô-bốt được xác định nhờ tín hiệu cảm nhận của các sen-sơ siêu âm. Rô-bốt phun cát hoạt động theo 2 chế độ: Chế độ tự động hoàn toàn và chế độ điều khiển bằng tay.
Nhằm ứng dụng trong trinh sát; chiếm lĩnh trận địa; chiến đấu bí mật, bất ngờ; tác chiến trên đường phố; chống bạo loạn… nhóm nghiên cứu đã bước đầu chế tạo thành công rô-bốt chiến trường. Rô-bốt có trọng lượng nhỏ hơn 120kg; kích thước không lớn hơn 1500x800x1000mm với hệ thống cơ khí vững chắc, ổn định; hệ thống điều khiển tin cậy, rô-bốt có thể di chuyển linh hoạt qua các địa hình không bằng phẳng, gồ ghề, mấp mô (địa hình tự nhiên); rẽ phải, trái, tiến, lùi, dừng một cách linh hoạt; quan sát được xung quanh nhờ các camera không dây, gửi được ảnh camera về giao diện máy tính tại vị trí điều khiển, ghi được video camera và có thể ngắm bắn qua ảnh camera và gá lắp được súng AK hoặc B41…
Trung Kiên (QDND)

Chuyên gia Nga nói về đóng tàu chiến Việt Nam

Việt Nam đang từng bước tích cực, chủ động mua dây chuyền chuyển giao công nghệ và tự mua thiết kế để đóng được những tàu quân sự hiện đại

Chuyên gia quân sự Andrei Bykov, chủ trang chuyên phân tích quân sự chính trị Kính Tiềm Vọng 2 (Periscope 2) của Nga mới đây có một bài viết nói về những chiến lược hợp tác đóng tàu quân sự linh hoạt, mạnh mẽ và những kinh nghiệm, thành tựu của ngành công nghiệp đóng tàu quân sự Việt Nam trong thời gian gần đây.
Xin trích dẫn lại bài viết, với tiêu đề: "Sức mạnh đóng tàu quân sự Việt Nam". Dưới đây là nội dung bài viết:
Việt Nam đang trở nên là một quốc gia có nền công nghiệp đóng tàu quân sự tiên tiến hơn bằng việc gia tăng mức độ công nghệ đóng tàu phức tạp đối với cả hai loại tàu chiến và tàu hỗ trợ tới các nhà máy đóng tàu cho Hải quân và Cảnh sát biển Việt Nam. 

Khởi đầu bằng một tàu tuần tra có thiết kế tương đối đơn giản như dự án của Tập đoàn Damen (Hà Lan) và dự án của Nga/Ukraina, nhà máy đóng tàu bắt đầu để xây dựng thêm các dự án đóng tàu quân sự khác phức tạp hơn. 

Tuy nhiên, với những nỗ lực để đóng một tàu tên lửa cỡ lớn đã cho ra đời dự án BPS-500 được khởi công vào cuối những năm 1990.
Tàu HQ-381 của HQNDVN.
 Được thiết kế bởi viện thiết kế phương Bắc của Nga, tàu tên lửa BPS-500 có chiều dài 62,2 m, tải trọng 609 tấn, được trang bị với động cơ diesel MTU, làm cho con tàu có thể tăng tốc độ tới 32,5 hải lý/giờ, hệ thống vũ khí bao gồm được trang bị với 8 tên lửa chống tàu Kh-35 Uran. 

Ban đầu, dự án này đã được Việt Nam lên kế hoạch để đóng tới 10 tàu, nhưng cuối cùng chỉ có một chiếc, mang số hiệu HQ-381 được đóng hoàn thành. 

Có lẽ, do nguyên nhân đóng con tàu thứ hai ở nhà máy đóng tàu Ba Son (TP HCM) gặp nhiều trục trặc trong quá trình đóng và thử nghiệm.

Không nghi ngờ gì nữa, rõ ràng Việt Nam đã rút ra một bài học từ sự thất bại của dự án này, họ (Việt Nam) bắt đầu chuẩn bị một thời gian dài để sản xuất một loại tàu mới, tàu pháo TT400TP có trọng tải 400 tấn. 

Về thiết kế bề ngoài, con tàu này gần giống với loại tàu Project Lan của Ukraina, và thực tế, đó chính là thiết kế của tàu lớp Lan được Ukraina bán cho Việt Nam với trung gian là công ty Ukrinmash. Một loạt 3 tàu TT400TP đã được khởi đóng tại nhà máy đóng tàu 173, thuộc Công ty đóng tàu Hồng Hà ở gần Hải Phòng.

Chiếc tàu TT400TP đầu tiên mang tên HQ-272 đã được đóng từ tháng 4/2009, hơn 2 năm sau đó, tháng 8/2011 con tàu được hạ thủy và bàn giao cho Hải quân Việt Nam vào  cuối tháng 9/2011 sau khi đã chạy thử và kiểm tra hệ thống vũ khí thành công. 

Tàu HQ-272 đã được Hải quân Việt Nam chính thức giới thiệu vào đầu năm 2012. Trong khi đó, tàu TT400TP thứ hai, mang tên HQ-273 cũng đã bắt đầu thử nghiệm trước thời hạn cách đây 5 tháng (kế hoạch thử nghiệm ban đầu vào tháng 3/2012).
Trước đó, Việt Nam cũng có kế hoạch đóng thêm 3 tàu TT400TP được thiết kế rút gọn cho Cảnh sát biển.
Tàu TT400TP HQ-273 đã thử nghiệm vượt tiến độ tới 5 tháng.
 Tàu pháo TT400TP có chiều dài 54,16 m, rộng 9,16 m, mướn nước 2,7 m và có tải trọng 400 tấn, được trang bị 3 động cơ diesel MTU nên có thể đạt tốc độ tối đa lên tới 32 hải lý/giờ. Tầm hoạt động của tàu là 2.500 hải lý khi di chuyển ở tốc độ 14 hải lý/giờ, khả năng hoạt động độc lập trên biển trong 30 ngày. 

Ở phía trước mũi tàu được trang bị một khẩu pháo 76 mm AK-176, ngoài ra phía đuôi còn được lắp đặt thêm hệ thống pháo tự động 6 nòng 30 mm AK-630. Hệ thống radar bao gồm radar kiểm soát hỏa lực MR-123-02 Bagira cũng như radar phát hiện mục tiêu trên không và radar định vị.

Tàu tuần tra bờ biển của Damen
Các nhà thiết kế hãng Damen chuyển giao công nghệ tàu chiến, tàu tầu tra cảnh sát biển loại tàu kích thước 90 mét, cho nhà máy đóng tàu Sông Thu Mới ở Đà Đẵng.

Hợp đồng đang trong quá trình thực hiện ban đầu là 2 chiếc, được Damen thiết kế đã bắt đầu được đóng trong tháng 1/2012 tại nhà máy đóng tàu 189 ở Hải Phòng. 

Các biến thể khác và loại tàu khác sẽ được đóng tại nhà máy đóng tàu Sông Thu Mới ở Đà Đẵng, nhà máy đóng tàu 189 cũng tiến hành đóng thêm số lượng lớn các tàu loại này. Rõ ràng, đây là động thái có chủ đích của Việt Nam tăng cường khả năng bảo vệ lãnh hải và bảo vệ ngư dân.

Tàu tuần tra này chủ yếu sử dụng để bảo vệ các ngư trường đánh bắt cá, tìm kiếm cứu hộ cứu nạn trên biển, công tác hậu cần. Theo dự kiến sẽ được hoàn tất bàn giao trong giữa năm 2012.

Tàu tuần tra ven biển sẽ được sử dụng chủ yếu để bảo vệ khu câu cá, tìm kiếm và cứu nạn, và hậu cần. Báo cáo về các thử nghiệm của tàu này, được dự kiến ​​sẽ giao hàng vào giữa năm 2012.
Thiết kế đồ họa của tàu DN-2000 tương lai của Việt Nam.
 Tàu tải trọng 2.400 tấn, thuộc dự án 9014 (DN-2000), được phát triển bởi Damen, có chiều dài 90 m, chiều rộng 14 mét và nướn nước 4 m, trang bị 4 động cơ đẩy diesel điện Caterpillar C3516C, đạt tốc độ tối đa 21 hải lý/giờ. 

Các tàu được trang bị một khẩu súng máy và cả pháo, thiết bị chữa cháy và một bãi hạ cánh cho máy bay trực thăng nặng 14 tấn (chẳng hạn như Ka-27/28). 

Ngoài thủy thủ đoàn 40 người, trên tàu có thể mang theo 30 nhân viên cứu hộ và khu vực nghỉ dưỡng của phi hành đoàn được dành riêng cho 50 người.

Các nguồn tin của Nga cho biết rằng, Việt Nam đang đóng 6 (tùy chọn thêm 4) tàu tên lửa Project 1241.8 Molnyia tại nhà máy đóng tàu Ba Son ở TP HCM, sử dụng thiết kế của nhà máy đóng tàu Vympel (Rybinsk), và với sự hỗ trợ kỹ thuật từ CMDB Almaz. 

Tuy nhiên, thông tin chi tiết về chương trình đóng tàu này khá ít ỏi. Hải quân Việt Nam đang có hai trong số các tàu thuyền được đóng bởi Rybinsk và 4 tàu tên lửa cao tốc thuộc dự án cũ Project 1241RE. 

Tàu hộ tống Sigma và các loại tàu khác
Nhưng khó khăn nhất của chương trình đóng tàu quân sự hứa hẹn là việc đóng 4 tàu hộ tống lớp Sigma, được phát triển bởi Damen. 

Theo các báo cáo, Việt Nam đang đàm phán với Damen để đóng cho bốn tàu như vậy (2 tàu đóng ở Hà Lan, và 2 tàu còn lại đóng tại Việt Nam theo phương thức chuyển giao dây chuyền công nghệ).
Tàu hộ tống lớp Sigma của Hà Lan.
 Damen từng cung cấp một số dự án tàu phụ trợ cho Việt Nam. Ngày 24/11/2011, Nhà máy đóng tàu Sông Thu đã bàn giao cho Hải quân Việt Nam tàu HMS 6613, được đặt tên là Giáo Sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa. 

Tàu HMS 6613 được khởi đóng trong tháng 7/2008. Sau đó, tháng 10/2010, họ tiếp tục đóng thêm con tàu cùng loại thứ hai, với thiết kế cấu trúc thượng tầng đã được sửa đổi, dự kiến sẽ ra nhập vào Hải quân Việt Nam trong năm 2014. Các tàu này sẽ được sử dụng để phục vụ thăm dò đáy biển.

Tàu HMS 6613 có chiều dài của 66,35 m, rộng 13,20 m, mướn nước 4 m và có tải trọng 1.550 tấn, được trang bị với bốn động cơ diesel điện Caterpillar 3412C TA. Phạm vi hoạt động - 5.000 hải lý khi di chuyển với tốc độ 10 hải lý/giờ, độc lập hoạt động tới 60 ngày đêm, con tàu này được trang bị sonar khảo sát thủy văn Atlas.
Ngoài ra, ba tàu kéo lớn cũng đã được đóng tại nhà máy đóng tàu Sông Thu cho Lực lượng Cảnh sát biển. 

Dự kiến, việc bàn giao tàu thứ tư sẽ diễn ra trong năm 2012. Hai tàu kéo dự án DST 4612 là CSB 9001 và CSB 9002 có chiều dài 45,7 m. Tàu thứ ba (CSB 9003) đã được bàn giao trong tháng 7/2011 -  đây là loại tàu lớn, tải trọng 1.400 tấn, dài 52 m, và chuyên hoạt động cứu hộ trên biển và ứng phó sự cố tràn dầu.
Tàu HQ-571 chạy thử nghiệm trên biển.
Cùng hợp tác đóng tàu cảnh sát biển và chiến trong các dự án với Damen, Việt Nam cũng xúc tiến đóng một số lượng lớn các tàu hỗ trợ trong các dự án quốc gia. Bao gồm một số lượng lớn các tàu dịch vụ hậu cần tàu, cũng như một số tàu đổ bộ. 

Gần đây, nhà máy 189 đã bàn giao cho Hải quân tàu vận tải quân sự tải trọng 2.050 tấn tàu HQ 571 Trường Sa (dự án K122 - có lẽ đây cũng là dự án với Damen). Nhà máy 189 cũng đã đóng và bàn giao tàu bệnh viện K123.

Ngoài việc đóng các tàu thuyền tại các nhà máy đóng tàu Hải quân, Việt Nam cũng đã có được một số lượng đáng kể các tàu chiến làm nền tảng, gồm hai tàu khu trục nhỏ Project 11661 Gepard 3.9 của Nga, được xây dựng tại nhà máy Zelenodolsk trong năm 2011, và hai tàu tuần tra Project 10412 Svetlyak mang tên  HQ 264 và HQ 265 vào tháng 1/2012.

Việt Nam tiếp tục ký kết hợp đồng đóng thêm 2 tàu Gepard 3.9 sửa đổi tăng cường khả năng chống ngầm, trong khi đóng thêm hai tàu Svetlyak tại nhà máy đóng tàu ở Vladivostok. Nhưng quan trọng nhất là việc đặt mua 6 ngầm Project 636 (lớp Kilo), được xây đóng tại nhà máy đóng tàu Admiralty. Việc giao chiếc tàu ngầm đầu tiên sẽ bắt đầu vào năm 2014.
Giới thiệu về đối tác Damen

Damen Shipyards Group – Tập đoàn đóng tàu Damen, Hà Lan,
Tập đoàn này hiện sở hữu 17 nhà máy đóng tàu ở Hà Lan và 18 nhà máy hợp tác ở nước ngoài (bao gồm Brazil, Romania, Việt Nam và Cuba).
Doanh thu năm 2011 đạt tổng cộng 1,4 tỷ euro, các nhà máy của công ty đang được phục vụ bởi 6 triệu công nhân/kỹ sư (ở Hà Lan là 2.500).
Các lĩnh vực tham gia : Tiếp thị, thiết kế và xây dựng các tùy chọn trong dự án đóng tàu khu trục nhỏ và tàu hộ tống lớp Sigma, tham gia phụ trách của bộ phận trong công ty đóng tàu hải quân đóng tàu Damen Schelde - một công ty con của Tập đoàn đóng tàu Damen.
Hiện nay, Tập đoàn đóng tàu Damen của Hà Lan đã tham gia hợp tác ở bốn nhà máy tại Việt Nam, bao gồm: Nhà máy đóng tàu Damen Vinashin, nhà máy đóng tàu Sông Cấm, Sông Thu và nhà máy 189.
Thu Phương (theo P2)
Nguồn Baodatviet

Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2012

GIỮ LEN ĐAO: "MÌNH HY SINH THÌ NÓ CŨNG PHẢI CHẾT BAO NHIÊU ĐỨA!".

Phải mất hơn nửa năm trời, việc đóng giữ đảo Len Đao mới hoàn thành, trước họng pháo của tàu Trung Quốc.


Trong entry "Chuyện Trường Sa của người Trường Sa: IV – Đóng giữ đảo Đá Đông" (đọc ở đây), Đại tá Nguyễn Văn Dân (nguyên Phó Tham mưu trưởng, Vùng 4 Hải quân) kể chuyện chạy đua và đấu trí với tàu Trung Quốc để đóng giữ đảo Đá Đông, ngày 19/2/1988.


Trong khi đang chỉ huy củng cố phòng thủ Đá Đông, đêm 13/3, Đại tá (lúc đó là Trung tá) Dân được lệnh lên tàu HQ - 614, chỉ huy lực lượng hành quân ngay lên phía đảo Sinh Tồn. Trung Quốc đang lăm le chiếm đóng các bãi cạn Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin ở Tây Nam cụm đảo Sinh Tồn.


Tàu HQ-614 hành quân ngay trong đêm 13/3, đi ở khoảng giữa đảo Châu Viên và đảo Phan Vinh. Có hai tàu Trung Quốc đến kèm, phá sóng liên lạc, theo Đại tá Dân nhớ là tàu 203 và tàu 205.


Tàu HQ 614 bị mất liên lạc với đất liền và bị chặn đường, nên đến trưa ngày 14/3/1988 mới đến được đảo Sinh Tồn. Lúc đó, các tàu HQ-604, HQ-605 đã bị bắn chìm, tàu HQ-505 đã lao lên Cô Lin.
-------------------------------------------


Chiều và đêm 14/3, tàu HQ-614 đưa anh em thương binh từ các đảo Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin lên đảo Sinh Tồn để cứu chữa, và báo cáo tình hình về nhà.


Sáng 15/3, tàu HQ-614 ra chỗ tàu HQ-605, HQ-604 bị bắn chìm.


Theo vết dầu nổi lên, xác định được vị trí tàu HQ-605 chìm ở cạnh đảo Len Đao, thả neo đánh dấu.


Trước đó, lực lượng trên tàu HQ-605 đã lên đảo Len Đao củng cố, rồi dùng xuồng và vật nổi bơi về Sinh Tồn.


Trong số người đã hy sinh, thi thể Trung úy Phan Hữu Doan (quê Chí Tiên, Thanh Hòa, Phú Thọ, Thuyền phó chính trị tàu HQ-605) được đưa về đảo Sinh Tồn.


Anh em nói, trong tàu còn thi thể Trung sĩ Bùi Duy Hiển (quê thị trấn Diêm Diền, Thái Thụy, Thái Bình, nhân viên báo vụ), nhưng anh em chưa đưa thi hài đi được.


Ít ngày sau, tàu Đại Lãnh ra cứu hộ, thợ lặn tích cực tìm kiếm trong tàu HQ-605 ở độ sâu 40 mét, nhưng không thấy thi thể anh Hiển.


Trưa 15/3, tàu HQ-614 vào khu vực Gạc Ma để tìm dấu vết tàu HQ-604, nhưng bị hai tàu khu trục của Trung Quốc ngăn cản…


Tàu HQ-614 neo gần chỗ tàu HQ-505 ở đảo Cô Lin, lập sở chỉ huy cụm 2 (Sinh Tồn) ngay tại đó. Tình hình ở cụm Sinh Tồn, Cô Lin, Len Đao căng thẳng cho đến tận cuối năm 1988.


Tại đảo Len Đao, khoảng 10 ngày sau ngày 14/3, quốc kỳ Việt Nam cắm sáng 14/3 bị sóng lớn làm trôi, ta tổ chức cắm lại. “Lá cờ bị sóng cuốn trôi, nhưng không biết nguyên nhân tại sao, lại trôi về tàu HQ-614 của tôi, lúc buổi trưa. Chúng tôi đưa cờ lên đảo để cắm lại, Trung Quốc đưa tàu đến sát, đe dọa nổ súng!” - Đại tá Dân kể.


Ông nghe Chuẩn Đô đốc Võ Nhân Huân, Phó Tư lệnh Hải quân nói: ở Bảo tàng Quân đội vẫn còn tấm ảnh ông mặc áo ba lỗ có sọc của hải quân, đang cầm cờ để cắm lại ở Len Đao.


Lúc đó, ta chưa xây dựng được nhà ở Cô Lin và Len Đao, giữ chủ quyền Cô Lin bằng tàu HQ-505, giữ Len Đao bằng cờ cắm trên đó và bằng tàu HQ


614. Thời gian đầu, ở Len Đao chỉ có HQ-614, hai tháng sau có thêm hai tàu cá, dạng tàu cá Hồng Kông. HQ-614 có thuyền trưởng là Đại úy Thành, thuyền phó Lợi và khoảng trên 20 người.


Ở cụm Sinh Tồn, Trung Quốc chiếm hai đảo chìm là Huy Ghơ và Gạc Ma, duy trì lực lượng quân sự rất đông. Hai tàu quân sự Trung Quốc luôn áp sát đảo của ta để gây sự, làm cho ta không dựng nhà được. Đồng thời, một tàu pháo của Trung Quốc chạy liên tục giữa Huy Ghơ và Gạc Ma.


Buổi trưa 12/5/1988, tàu Trung Quốc áp sát tàu HQ-614 và hai tàu cá vừa được tăng cường đang ở cạnh đảo Len Đao, khi quân ta chuẩn bị ăn cơm.


HQ-614 là tàu vận tải loại 200 tấn, vũ khí chỉ có AK với B40, một khẩu 12 ly 7.


Tàu Trung Quốc cũng khoảng 200 tấn, nhưng có pháo 37 ly, súng 14,5 ly, nòng chĩa thẳng vào tàu ta. Binh lính Trung Quốc rất ngạo mạn, đứng hút thuốc, búng tàn thuốc về phía ta, tỏ vẻ khiêu khích.


Lúc đó, tàu ta chưa có tăng cường người biết tiếng Trung Quốc, còn tàu nó có người nói tiếng Việt rất sõi. Quân ta hết sức bình tĩnh, mặc cho đối phương khiêu khích.


Anh Liên, lính đặc công người Quảng Bình được phân công ôm khẩu B40 nằm trong xuồng, anh em khác mỗi người một khẩu AK, ngồi giả vờ câu cá. “Nếu nó nhảy sang, B40 sẽ bắn vào đài chỉ huy của tàu nó, còn AK cũng bắn mạnh luôn, mình có hy sinh thì nó cũng phải chết bao nhiêu đứa…” - Đại tá Dân kể lại, giọng đầy hào sảng.




Tháng 9/1988, tàu HQ-614 về đất liền. Cả thuyền thưởng, máy trưởng, ông Dân và tập thể tàu được tuyên dương ngay, tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba.


Khi về đất liền, Đại tá Dân được Đô đốc Giáp Văn Cương hỏi ý kiến về cách tổ chức xây dựng đảo Len Đao.


Ở Len Đao có doi cát di chuyển theo mùa, khi thủy triều lên cao nhất là doi cát gần ngập.


Đại tá Dân đề nghị: Nên dùng tàu kéo một tàu LTM8 (tàu há mồm nhỏ) ra, trên đó có sẵn nhà cao chân và các phương tiện lắp ghép. Buổi tối mình tập kết cạnh đảo, lúc thủy triều lên cao nhất thì mình đổ bộ, triển khai làm nhà luôn. Tàu Trung Quốc ở ngay đó, nhưng sẽ không kịp phản ứng, không có cớ để đánh mình.


Khoảng tháng 10, tháng 11/1988, lúc đó triều cường, việc xây dựng đảo Len Đao được thực hiện thành công…


TÓM TẮT CÁC SỰ KIỆN TRONG VIỆC BẢO VỆ, GIỮ GÌN QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA


Tháng 4/1975, Hải quân Nhân dân Việt Nam giải phóng và tiếp quản các đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa từ Hải quân Việt Nam Cộng hoà.


Tháng 2/1978, Philippines đưa quân chiếm đóng đảo Ponata, đảo Dừa.


Ngày 10/3/1978, quân ta đổ bộ lên đảo An Bang.


Ngày 15/3/1978, ta đóng giữ đảo Sinh Tồn Đông.


Ngày 30/3/1978, ta đóng giữ đảo Hòn Sập (Phan Vinh).


Ngày 4/4/1978, quân ta hoàn thành việc đóng giữ đảo Trường Sa Đông.




Cũng trong tháng 4/1978, một phân đội được đưa ra đóng giữ đảo Thuyền Chài, nhưng do điều kiện vật chất chưa bảo đảm nên tháng 5/1978 phân đội được rút về đất liền.


Tháng 12/1986 và tháng 1/1987, Malaysia chiếm đóng bãi Kỳ Vân và bãi Kiệu Ngựa.


Tháng 3/1987, ta trở lại đóng giữ đảo Thuyền Chài.


Tháng 6/1987, Trung Quốc diễn tập quân sự ở nam biển Đông. Tháng 10, tháng 11/1987, một số tàu chiến của Trung Quốc đi gần các đảo An Bang, Thuyền Chài, Trường Sa Đông, Trường Sa, Song Tử Tây.


Ngày 24/10/1987, Tư lệnh Quân chủng Hải quân ra lệnh Vùng IV chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu từ thường xuyên lên tăng cường.


Ngày 6/11/1987, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra "Mệnh lệnh bảo vệ quần đảo Trường Sa", giao cho Quân chủng Hải quân "Đưa lực lượng ra đóng giữ các bãi đá cạn chưa có người, không chờ chỉ thị cấp trên".


Ngày 2/12/1987, tàu HQ-604 thuộc Lữ đoàn 125 đưa bộ đội đến đảo Đá Tây.


Ngày 22/1/1988, Trung Quốc đưa 4 tàu hộ vệ tên lửa, tuần dương, tàu dầu, tàu đổ bộ và một số tàu khác đến chiếm đóng đảo Chữ Thập.


Ngày 27/1/1988, Đại tá Phạm Công Phán, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 chỉ huy 1 đại đội công binh mang 2 khung nhà ra đóng giữ đảo Chữ Thập. Do hỏng máy, sáng 30/1 tàu mới đến gần Chữ Thập, bị 4 tàu chiến Trung Quốc ngăn cản. Tàu ta đành phải quay về Trường Sa Đông, không thực hiện được việc đóng giữ đảo Chữ Thập.


Đảng ủy Quân chủng Hải quân xác định: "Lúc này, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền vùng biển và quần đảo Trường Sa là nhiệm vụ quan trọng nhất, khẩn trương nhất và vinh quang nhất của Quân chủng Hải quân".


Ngày 5/2/1988, quân ta đóng giữ đảo Đá Lát.


Ngày 6/2/1988, quân ta đóng giữ đảo Đá Lớn.


Ngày 26/2/1988, Trung Quốc chiếm đóng đảo Ga Ven.


Ngày 26/2/1988, quân ta đóng giữ đảo Tiên Nữ.


Ngày 27/2/1988, ta chốt giữ thêm đảo Tốc Tan.


Ngày 2/3/1988, ta đóng giữ thêm đảo Núi Le.


Ngày 14/3/1988, sự kiện Gạc Ma – Len Đao – Cô Lin


(Theo Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam và một số tư liệu khác). 
Nguồn Blog Maithanhhai
Lên đầu trang
Vào giữa trang
Xuống cuối trang