Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2014

THUỐC NAM CHỮA BỆNH THỦY ĐẬU

"Mùa này, rất nhiều trẻ bị bệnh thủy đậu. Mình xin giới thiệu một bài thuốc hay với hy vọng sẽ giúp ích được cho mọi người.
Admin

Theo Đông y, thủy đậu là một loại bệnh ôn dịch. Nếu chủ quan, không chăm sóc vệ sinh thân thể tốt dễ bị biến chứng bội nhiễm và nặng hơn là nhiễm trùng huyết.
Bệnh thủy đậu sẽ xuất hiện 10 - 14 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh thường xuất hiện nhiều về mùa xuân và rất dễ gây thành dịch, khởi phát bệnh thường đột ngột với triệu chứng nổi mụn nước, mụn nước nổi ở vùng đầu mặt, chi và thân, mụn nước xuất hiện rất nhanh trong vòng 12 - 24 giờ có thể nổi toàn thân, ban ngứa là dấu hiệu đầu tiên của cơn bệnh, sốt nhẹ, nhức đầu và mệt mỏi là điều thông thường.
Bệnh truyền nhiễm và lây lan qua tiếp xúc từ người lạ bị thuỷ đậu hoặc qua những giọt nước nhỏ trong không khí từ miệng hay mũi của một người bị nhiễm
Trải qua nhiều năm nghiên cứu ứng dụng những bài thuốc Đông y, chúng tôi đã tạo dựng được bài thuốc Đông y sau đây có kết quả tốt nhất cho điều trị bệnh thủy đậu.

Phương dược: Tam hoàng ngân kiều kinh phòng giải độc thang, gồm:
1. hoàng cầm 12g      2. hoàng bá 12g         3. hoàng liên 8g
4. kim ngân hoa 20g   5. liên kiều 16g          6. kinh giới 12g
7. phòng phong 12g   8. độc hoạt 8g           9. khương hoạt 8g
10. tiền hồ 8g            11. sài hồ 10g            12. chỉ xác 8g
13. cát cánh 8g          14. bạch linh 16g       15. cam thảo 8g
16. xuyên khung 8g   17. bạch chỉ 8g          18. bạc hà 6g
19. đảng sâm 16g      20. gừng tươi 3 lát     21. đại táo 3 quả.

Công dụng: diệt siêu vi khuẩn thủy đậu rất hiệu quả, hết ngứa giảm đau, làm xẹp mụn, giải độc, cải thiện sức đề kháng và phục hồi sức khỏe. Điều trị được giai đoạn khởi phát, toàn phát và biến chứng, nhất là biến chứng thủy đậu nhiều năm sau như bệnh Zona thần kinh (dời leo)...

Cách dùng: sắc uống mỗi ngày 1 thang, sắc 2 nước, nước đầu cho 5 chén nước sạch sắc còn 1 chén, uống bất kỳ, nước thứ hai cho 5 chén nước sắc còn nửa chén, uống sau nước thứ nhất 4 giờ.

Chăm sóc vệ sinh thân thể:
Bệnh nhân phải nghỉ tại giường, không gãi ngứa để giữ cho da không bị trầy xước và mụn thủy đậu không bị vỡ, Có thể lau mình hoặc tắm bằng nước thuốc cây kinh giới: Cây kinh giới tươi 100g nấu với 3 lít nước để sôi 30 phút, pha thêm nước sạch còn ấm 37oC, dùng khăn mềm nhúng thuốc lau mình hoặc tắm nếu thủy đậu đã bay hoặc dùng cây phèn đen tươi 200g nấu với 3 lít nước để sôi 20 phút pha thêm nước sạch còn ấm khoảng 35-40 độ C dùng khăn mềm lau hoặc tắm.
Chỉ cần chăm sóc sức khỏe tại nhà bằng phác đồ điều trị trên thì chắc chắn khỏi, rút ngắn thời gian bệnh lý, không gây biến chứng, không lây lan, an toàn cho người bệnh.

Bs. Phạm Minh Tuấn

Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014

Đề án đổi mới giáo dục tốt nhất từ trước đến nay! – Hoàng Tụy, Gia Hân

Khi được hỏi về Đề án “Đổi mới căn bản và toàn diện GD – ĐT”, ông khẳng định với phóng viên báo Giáo dục và Thời đại: “Tôi đồng ý với nhận xét của một số thức giả lâu nay thường quan tâm tới giáo dục: Đây là Đề án đổi mới giáo dục tốt nhất từ trước đến nay”.
Mở đầu câu chuyện, GS Hoàng Tụy chia sẻ: Giáo dục hiện đang ở trong trạng thái có thể mô tả như một điểm chết của hệ thống. Mắc kẹt vào đó thì không cách gì thoát ra được nếu chỉ bằng biện pháp điều chỉnh, sửa đổi nửa vời. Chỉ có thể thoát ra bằng cách đột phá vào cấu trúc hệ thống, hay nói như trong kinh tế, phải tái cấu trúc, phải sửa ngay từ các lỗi hệ thống, chứ không phải sửa lặt vặt như đã làm lâu nay.
Chỉ với tinh thần ấy mới có thể bàn định rốt ráo việc đổi mới giáo dục. Trong tình hình nước sôi lửa bỏng, kinh tế đang lâm vào vòng xoáy khủng hoảng, trong đó có phần quan trọng do sự yếu kém của giáo dục, thì nhiệm vụ bức thiết của chúng ta là phải đổi mới mạnh mẽ giáo dục để góp phần chấn hưng kinh tế. Rất may, Đề án lần này đã được xây dựng trên tinh thần tích cực đó.
GS có thể cho biết những điểm nào trong Đề án theo ông có tính chất đột phá?  
- Trước hết, Đề án đã nêu trúng và giải quyết đúng những mắc mứu căn bản, mang tính hệ thống của mô hình trường phổ thông Việt Nam hiện nay.
Trên thế giới, ở hầu hết các nước văn minh, cấp học để bảo đảm học vấn phổ thông cơ bản chỉ có 9 năm, tương ứng với THCS của ta. Cấp học tiếp theo (2 hoặc 3 năm tùy nước) rẽ theo hai hướng:
1) Hoặc là trung học nghề để học một nghề lựa chọn, để nếu ra đời ngay thì có thể kiếm sống bằng nghề đó, đồng thời bổ sung học vấn phổ thông để nếu muốn vẫn có thể học tiếp lên cao đẳng hay đại học;
2) Hoặc là THPT với nhiệm vụ dứt khoát chuẩn bị cho ĐH (cho nên chương trình phải phân hóa phù hợp với các chuyên ngành chính ở ĐH). Khác với các nước,  trường phổ thông 12 năm của ta tham vọng không thực tế vừa cung cấp học vấn phổ thông trình độ cao vừa chuẩn bị đồng loạt vào ĐH, CĐ.
Do tính chất nửa vời đó mà sinh ra nhiều khó khăn và lãng phí lớn. Hàng năm một số lớn thanh niên tốt nghiệp THPT không qua lọt cánh cửa ĐH, CĐ, đành phải bước vào thị trường lao động mà trong tay không có nghề, dù đã tốn 12 năm đèn sách.
Trong khi đó vì thiếu công nhân lành nghề và kỹ thuật viên trung cấp thông thạo nên công nghiệp phụ trợ không phát triển nổi, sau mấy thập kỷ xây dựng công nghiệp mà cuối cùng  chỉ có lắp ráp, xuất khẩu tài nguyên thô thì làm sao giàu được. Tình trạng đó vừa thiệt hại cho xã hội vừa tạo mầm mống bất ổn trong thanh niên.
Mặt khác, tính chất nửa vời như vậy buộc cách dạy ở THPT phải thiên về đồng loạt, ít chú ý đến sở thích, khả năng cá nhân, nên vừa quá tải cho mọi người – do ai cũng phải học kỹ nhiều môn không hợp sở thích và sẽ không cần đến sau này, vừa không đủ để chuẩn bị cho ĐH do mỗi người được học quá ít về những môn sẽ cần đến khi lên ĐH về chuyên ngành sẽ chọn.
Chính vì nội dung học quá tải cho mọi người nên dễ dẫn tới xu hướng học thuộc lòng máy móc, ít chịu khó đào sâu, suy nghĩ, tự học, tự tìm đến tri thức – những đức tính tối cần thiết để cạnh tranh thắng lợi trong thế giới ngày nay.
Cho nên, cải tổ lại hệ thống phổ thông theo hướng như trong Đề án là hoàn toàn hợp lý và cần thiết. Để có học vấn phổ thông cơ bản chỉ cần 9 năm là  đủ, sau đó một số lớn học sinh (khoảng 2/3) sẽ vào trung học nghề, chỉ trên dưới 1/3 vào THPT.
Như vậy, sau THCS mỗi người được học sâu những môn ưa thích và không phải học quá kỹ nhiều thứ sau này chẳng bao giờ cần đến. Nhờ đó sẽ không có chuyện quá tải mà theo cách học hiện nay không có cách nào tránh được, năm nào cũng nói giảm tải mà chưa bao giờ ổn.
Thứ hai là chuyện thi tốt nghiệp THPT và thi ĐH đang là vấn đề thời sự trong xã hội ta. Về nguyên tắc, sau THCS trở đi, mỗi cấp học đều phải đào tạo chuyên (ở mức độ thích hợp) một hoặc một vài ngành nghề hay lĩnh vực. Nội dung đào tạo ở đây vì thế gồm một số học phần phải nắm vững khi ra trường, cho nên học xong học phần nào phải thi ngay, cuối cấp không thi lại nữa. Nói có học có thi là phải hiểu như vậy, chứ không phải học môn gì thì cuối cấp phải thi lại tất.
Cũng giống như trong một nhà máy làm ra một sản phẩm gồm nhiều bộ phận chi tiết riêng rẽ (môđun) ghép lắp lại thì từng môđun phải được kiểm tra kỹ chất lượng ngay khi sản xuất, đến khi lắp ráp để có thành phẩm cuối cùng, nếu có kiểm tra thì chỉ kiểm tra chất lượng lắp ráp, không ai đến khi đó lại lôi từng môđun ra kiểm tra chất lượng lại.
Cho nên học môn nào, học phần nào phải kiểm tra, thi nghiêm túc ngay môn đó, học phần đó, đến cuối cấp không có kiểu thi lại từng môn, từng học phần như thi tốt nghiệp của ta, mà chỉ xét kết quả chung cả quá trình đào tạo (thường là qua các “tín chỉ” hoặc lấy trung bình có hệ số).
Và, nếu cần, phải làm một tiểu luận hoặc qua một kỳ thi nhẹ nhàng, với mục đích chủ yếu kiểm tra trình độ tổng hợp  (giống như kiểm tra chất lượng lắp ráp các môđun).
Làm như thế tránh được rủi ro học tài thi phận, tránh được các tiêu cực thường xảy ra trong các kỳ thi tốt nghiệp kiểu cũ.  Còn tuyển sinh vào ĐH, CĐ thì tùy từng trường, có thể chỉ căn cứ học bạ ở THPT và kết quả thi THPT, kết hợp với phỏng vấn hoặc cần có thêm thi tuyển sinh riêng của trường ấy.
Như vậy không phải là bỏ thi như một số người hiểu lầm mà là thay kiểu thi tốt nghiệp nặng nề cũ bằng một cách thi khác, hiệu quả và ít tốn kém hơn. Ở Pháp, kỳ thi tú tài số thí sinh ít hơn ta, mà thi cũng nhẹ nhàng hơn ta, thế mà các nhà kinh tế đã ước tính chi phí cả nước lên đến 1,5 tỉ Euro, cho nên mỗi mùa thi với hai kỳ thi liên tiếp như ta ắt phải tốn ít ra hàng chục nghìn tỉ đồng.  Thay đổi cách thi như trong Đề án sẽ tiết kiệm công sức và một khoản tiền khá lớn, có thể để dành làm nhiều việc có ích hơn.
Sau cùng, nhưng quan trọng nhất là vấn đề chính sách đối với nhà giáo các cấp.  Đề án có lý khi nhấn mạnh vấn đề này. Trong nhiều nét đặc biệt không giống ai của giáo dục VN nổi bật nhất chính là điểm này. Trên danh nghĩa nghề giáo rất được coi trọng, nhưng trên thực tế nghề giáo là một trong những nghề bị rẻ rúng nhất trong xã hội. Tôi đã phát biểu quá nhiều về vấn đề này rồi nên không muốn nói thêm gì nữa.
Chỉ mong sao song song với những đổi mới như trong Đề án thì cơ chế tài chính trong ngành Giáo dục cũng sẽ được cải tiến, các khoản chi tiêu sẽ hợp lý hơn để có thêm phương tiện hỗ trợ cuộc sống của nhà giáo, đảm bảo cho họ có thêm điều kiện toàn tâm toàn ý với nghề.
GS nhận định Đề án là một cuộc cải cách, đột phá về cơ cấu và đổi mới tư duy giáo dục. Vậy GS có nhận xét gì về tính khả thi của Đề án và ông có cho rằng những sự thay đổi mạnh mẽ nêu ra sẽ dễ dàng được chấp nhận? 
- Tôi nghĩ Đề án hoàn toàn khả thi vì đây chẳng qua là đưa giáo dục của ta trở lại quỹ đạo chung của thế giới. Người ta đã có kinh nghiệm, không lẽ họ làm được mà ta lại chịu thua. Nếu có khó khăn thì chỉ  là khó khăn về tư tưởng chứ không thể có khó khăn về vật chất, vì như đã phân tích ở trên những đổi mới này chỉ có thể giúp tiết kiệm chứ không đòi hỏi chi phí tốn kém.
Mà khó khăn tư tưởng thì chắc chắn khó tránh, vì gì chứ về tính bảo thủ thì dân ta cũng chẳng kém ai đâu! Ngay như việc thay đổi cách thi cử cho nhẹ nhàng, có hiệu quả và ít tốn kém hơn thì cũng không phải ai cũng dễ dàng đồng tình ngay.
Có người phản đối vì hiểu nhầm là bỏ thi nhưng cũng không loại trừ  có người chỉ phản đối xuất phát từ những tính toán cá nhân theo lợi ích nhóm. Ngoài ra cũng có tâm lý cầu an của một số cán bộ quản lý luôn ngại thay đổi vì dù thay đổi kiểu gì cũng khó tránh được một số phiền toái nhất định khi khởi động.
Xin cảm ơn GS về cuộc trò chuyện!
Nếu Đề án được thông qua, sau đó sẽ còn rất nhiều việc cần làm để bảo đảm thành công. Đương nhiên những ai có tâm huyết và tinh thần trách nhiệm sẽ không ngại, vì đây là cơ hội tốt nhất để giáo dục lột xác và lấy lại niềm tin của nhân dân. Giáo sư Hoàng Tụy
Gia Hân

Lấy bài toán làm trung tâm – Dương Trọng Tấn

Có quan điểm “giáo dục phải lấy người học làm trung tâm”. Nhất trí!
Có người hỏi “như thế nghĩa là thế nào?”. Bắt đầu bí.
Hỏi thêm “[thiết kế]bài giảng như thế nào thì là lấy người học làm trung tâm?”. Lần này thì bắt đầu rối tung lên.
Trong “Cách ta nghĩ”, Dewey chỉ rõ người lớn có mối quan tâm chuyên biệt hơn trẻ nhỏ, việc học bị chi phối rất nhiều bởi các kinh nghiệm và bối cảnh (địa vị xã hội, mục đích đi học, mục đích nghề nghiệp …) trước đó. Vì thế nếu biết được các kinh nghiệm trước đó, cùng với “mối quan tâm chuyên biệt” ấy là gì, ta có thể động viên được người học. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất về việc học (xem thêm “How people learn”).
Knowles cho rằng người học (trưởng thành) luôn quan tâm đến vấn đề trước, rồi tìm cách cách giải quyết vấn đề ấy. Vì thế một bài giảng phải giúp người ta “thỏa mãn” được mối quan tâm tự nhiên ấy, từ đó mới có được động lực tự nhiên kích thích người học. Một bài giảng tập trung vào “chuyển giao thông tin” dưới bất kì hình thức nào đều lấy nội dung làm trung tâm của việc dạy, sẽ không phù hợp với tâm lí của người học, giới hạn kết quả của việc học.
Vậy “thế nào là lấy bài toán làm trung tâm”? Và thế nào là “lấy nội dung làm trung tâm”? Ta xem hai ví dụ (chỉ là ví dụ) dưới đây:
1. Tình huống một
Trong bài giảng về Hàm, cô giáo viết lên bảng dòng chữ
“Hàm số”
[Rồi bắt đầu giảng giải]
Hàm là một quy tắc cho tương ứng giữa hai tập hợp X và Y, với mỗi x thuộc X, có một y thuộc Y, và ta viết là y = f(x).
Ví dụ như y = f(x) = 2.x, với x bằng 1 thì ta có y = 2.1 = 2.
Các em nắm được chưa?
[Học trò: dạ rồi ạ
Rồi cô giáo giảng tiếp]
2. Tình huống Hai
Cô giáo hỏi: bạn nào đã đi chợ mua gì cùng bố mẹ hay anh chị chưa?
Bạn Tùng: dạ hôm qua em đi mua chuối ạ
Bạn Bình: dạ em với chị đi mua quần áo ạ. Em mua được cái thắt lưng rất đẹp
Bạn Thành: dạ hôm nọ em cùng ông nội đi mua cái trống chèo ạ.
[Cả lớp nhao nhao]
Cô giáo: rồi, tốt lắm, thế có ai được giảm giá tí nào không?
Bình: có ạ, chị em dắt vào cửa hàng sale 30% ạ.
Thành: dạ có ạ, một nửa
Cô: Bình cho cô biết giảm 30% có nghĩa là thế nào?
Bình: cái thắt lưng của em có giá 100 nghìn, được giảm 30 nghìn ạ. Em chỉ phải trả có 70 nghìn thôi. [Mặt hớn hở].
Cô: thế 30% giảm giá nghĩa là thế nào?
Bình: là 30% của 100, là 30 nghìn ạ.
Cô: rồi giỏi lắm. Vậy là lớp mình có một người hiểu thế nào là hàm số rồi đấy.
[Viết lên bảng và đọc to]
Giá_thắt_lưng = giá_gốc – giá_gốc X tỉ_lệ_giảm_giá.
= 100 – 100X30% = 70 (nghìn).
Cô giáo:  Thành có làm được phép tính như thế này không?
Thành: dễ như bỡn ạ [ Rồi tự tin lên bảng, viết phép tính tương tự ]
[Ngay sau đó cô giáo dẫn giải sang khái niệm hàm số: f(x) = a.x, rồi thử thách các bạn giải các bài toán khác như tính phản lực tác động vào một vật cũng với phương trình f=m.a, và tính doanh thu của một cửa hàng dựa trên lượng hàng bán ra với các lượng giảm giá tương ứng...]
Trong tình huống một, cô giáo tập trung vào giảng giải cặn kẽ khái niệm, truyền tải nội dung cho học trò, và hy vọng học trò hiểu được. Cô kết hợp với lấy ví dụ và cho làm bài tập trên lớp. Cách này tuyến tính, và không tính tới “bối cảnh” là các học trò của mình có liên quan  gì đến khái niệm này hay không. Toàn bộ bài giảng tập trung vào “dạy hết” nội dung có trong giáo án soạn sẵn trong phạm vi một tiết học đã quy định.
Tình huống hai ngược lại. Người học được tham gia  vào quá trình đi đến khái niệm và phương pháp, cũng là cái cốt lõi của bài giảng; được trực tiếp giải quyết vấn đề của mình sử dụng một khung kiến thức nào đó. Đây là một bài giảng tương tác cao độ, xoay quanh các bài toán thực tiễn để học khái niệm mới và cách thức giải quyết vấn đề.
Nhìn hai ví dụ trên có thể bạn mường tượng ra được thế nào là “lấy nội dung làm trung tâm” vs. “lấy bài toán làm trung tâm” rồi chứ?
Nếu sử dụng cách tiếp cận “lấy nội dung làm trung tâm” để thiết kế (hay dùng tự “soạn” cho nôm na) bài giảng thì nhà giáo có rất ít đất để sử dụng các loại phương pháp học tập giàu trải nghiệm như đóng vai, trò chơi, thảo luận, tình huống nghiên cứu .. Kết quả cho ra toàn những bài giảng nghèo nàn, tuyến tính, không hứng thú. Những bài giảng loại này chính là sát thủ giấu mặt của việc học.
Dạo này người ta bắt đầu nói nhiều đến cái mốt “giảng dạy tích hợp”, hay “học tập tích hợp”. Nếu dùng “tiếp cận nội dung” thì không bao giờ mặc được cái áo này. Trong khi nếu dùng hướng “bài toán – vấn đề” thì tự nhiên nó tích hợp rồi. Vì chẳng có bài toán thực sự nào ở trong chân không cả!
Trên đây chỉ đưa ra hai ví dụ đơn giản về một tình huống trên lớp để làm rõ sự khác biệt giữa hai cách tiếp cận. “Problem-centered” hay “Problem-based learning” không chỉ có thế. Nó còn nằm ở cách đặt vấn đề trong toàn bộ khóa (hay môn) học, trong tài liệu học tập, trong cách thức tương tác ngoài giờ học giữa thầy cô – học trò, giữa học trò với nhau, và giữa học trò với chính học trò đó. Thực tế, phương châm thiết kế học tập dựa trên các bài toán không chỉ có ích cho người lớn, mà còn rất hữu ích cho trẻ con nữa. Điều khác biệt ở đây có chăng ở chính các bài toán. Trẻ con quan tâm tới một danh sách các bài toán đặc thù, theo một kiểu đặc thù, còn người lớn theo một kiểu khác; vì thế cách thức và định hướng sẽ phải căn cứ vào đó mà vận dụng chữ tùy. Việc này cũng không hẳn là rắc rối lắm. Chỉ cần đặt câu hỏi: hôm nay, bài toán nào?
Dương Trọng Tấn.

Sự thật đáng buồn của GD Việt Nam qua câu chuyện của GS. Nguyễn Lân Dũng ....



Sưu tầm by admin

Lương giáo viên – Tọa đàm VTV (trích)

Dưới đây là trích từ bản gỡ băng cuộc tọa đàm trên VTV giữa ông Bùi Mạnh Nhị (Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ, Bộ GD&ĐT),  ông Nguyễn Quang Dũng (Phó Vụ trưởng Vụ Tiền lương, Bộ Nội vụ), Quý Hiên (báo Tiền Phong) và Hồng Nga (VTV).
***
Hồng Nga: Xin phép được hỏi các vị khách mời: Giáo viên cũng là người lao động, cũng là viên chức như bao viên chức các ngành nghề khác, vậy tại sao tiền lương cũng như phụ cấp của GV lại trở thành đề tài nhạy cảm, được quan tâm và cần phải có giải pháp đột phá?   
Bùi Mạnh Nhị: Hiện nay đội ngũ giáo viên trong cả nước rất lớn – 1, 2 triệu người, trong đó 1.134.600 người thuộc hệ thống công lập. Đây là đội ngũ viên chức lớn nhất so với tất cả các ngành khác. Hiện nay, đời sống của giáo viên rất khó khăn do đồng lương còn thấp. Chẳng hạn, giáo viên mầm non (ở nông thôn và thành thị) sau khi ra trường có mức lương khởi điểm là 2,6 triệu đồng/ tháng. Sau mười năm, lương của họ được hơn 4 triệu đồng. Đối với giáo viên THPT, khởi điểm của họ là 3,2 triệu đồng, sau 10 năm họ được hơn 5 triệu đồng. Với đồng lương đó, đời sống của giáo viên gặp nhiều khó khăn, nhất là với nhà giáo sống ở vùng đô thị.
Hồng Nga: Nhưng người ta cũng nói người lao động các ngành nghề khác trong xã hội lương cũng thấp lắm. Vậy tại sao vấn đề lương giáo viên lại trở nên nhạy cảm trong rất nhiều năm đến như thế?
Bùi Mạnh Nhị: Lao động của giáo viên là lao động đặc biệt. Ví dụ như giáo viên mầm non. Các cô không chỉ làm việc 8 tiếng. Các cô phải đến sớm hơn trước giờ làm việc để đón các cháu. Sau thời gian làm việc 8 tiếng, các cô vẫn phải lưu lại để chờ các cháu cuối cùng được bố mẹ đón về. Khi đó, các cô mới được rời nhiệm sở. Hoặc giáo viên phổ thông, ngoài giờ lên lớp họ có nhiều công việc khác như soạn giáo án, chấm bài… Lượng thời gian làm những công việc này còn nhiều hơn lượng thời gian họ đứng trực tiếp trên bục giảng.
Quý Hiên: Đành rằng nghề nào cũng đáng được trân trọng và có quyền có mức lương đủ để trang trải cho cuộc sống và tình trạng lương thấp là mặt bằng chung chứ không chỉ với riêng nghề giáo viên. Nhưng người ta hay nói về vấn đề lương giáo viên ở chỗ ngành GD là ngành, như anh Nhị nói, có lực lượng lao động rất lớn – 1,2 triệu người, lớn nhất so với tất cả ngành nghề khác. Tôi nhớ không nhầm, cách đây khoảng dăm năm người ta bảo lực lượng giáo viên chiếm đến 80% tổng số công chức – viên chức nhà nước. Thứ hai, chất lượng của lực lượng lao động đó có mức độ ảnh hưởng trực tiếp ít nhất tới 22 triệu người đi học. 22 triệu người đi học ấy nó lại có ảnh hưởng lan toả, tôi nghĩ ít nhất là gấp 4 lần. Tôi nhớ, có lần GS Hồ Ngọc Đại nói rằng, một người đi học hạnh phúc sẽ làm cho cả bốn người khác trong xã hội được hạnh phúc – bố mẹ, ông bà. Ảnh hưởng của hệ thống này rất lớn, nên chất lượng của đội ngũ giáo viên, nói tóm lại, ảnh hưởng tới cả nước. Cho nên người ta mong chất lượng đội ngũ đó cao. Nhưng khi trả lương cho người ta ở mức không đủ sống mà đòi hỏi cao thì rất khó. Đây là một vấn đề người ta không biết quả trứng có trước hay con gà có trước. Lương cao thì chất lượng tốt hay chất lượng tốt lương mới được cao.
MC Hồng Nga: Tôi muốn lắng nghe ý kiến của ông Dũng. Chắc ông có trong tay bảng lương của viên chức cả nước nên thấu hiểu được chuyện này?
Nguyễn Quang Dũng: Tôi là người may mắn được tham gia thiết kế chế độ tiền lương hiện hành được thực hiện từ năm 2004. Người ta nói lương giáo viên thấp, tôi xin nói không chỉ lương giáo viên mà cả thống cán bộ công chức viên chức trong hệ thống chính trị mình là thấp, vì đối tượng hưởng lương của mình hiện nay là quá đông. Riêng viên chức trong khu vực sự nghiệp là khoảng 2 triệu người, trong đó như anh Nhị nói giáo viên chiếm tới 1,2 triệu người.
Tuy nhiên, theo cách thiết kế tiền lương của năm 2004 thì các ngành nghề được áp dụng một bảng lương chung. Theo đó, tiền lương theo bậc trong chức danh là bằng nhau. Ngoài ra, chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với ngành giáo dục được thiết kế cao nhất. Gần đây nhất, từ tháng 5/2011 Chính phủ ban hành nghị định 54 cho phép nhà giáo được hưởng thêm phụ cấp thâm niên. Cho nên nói về tương quan chế độ tiền lương và phụ cấp trong hệ thống công chức – viên chức thì giáo viên được cao nhất. Anh Nhị có nói giáo viên mới ra trường là 2,6 triệu thì không phải đâu. Theo quy định, giáo viên mầm non chia thành ba ngạch. Ngạch GV MN bình thường tốt nghiệp trung cấp, ngạch GV MN chính tốt nghiệp Cao đẳng, ngạch GV MN cao cấp tương đương với trình độ ĐH. Bậc 1 của GV MN mới đi làm ở đồng bằng và thành phố gần 2,9 triệu đồng; nếu ở miền núi, vùng sâu vùng xa được khoảng 3,2 triệu đồng; nếu ở vùng đặc biệt khó khăn được hơn 5,1 triệu đồng. Nếu GV MN tốt nghiệp ĐH bậc 1 được 3,6 triệu đồng, đấy là đồng bằng, còn miền núi vùng sâu vùng xa là hơn 4 triệu đồng, vùng đặc biệt khó khăn là 6,4 triệu đồng. Nó thể hiện sự ưu đãi của nhà nước, khuyến khích các thầy cô lên làm việc ở vùng khó khăn.
Hồng Nga: Xin được hỏi chị Quý Hiên, trong quá trình làm việc chị đã gặp gỡ nhiều nhà giáo, chị thấy cuộc sống của họ thế nào với đồng lương hiện nay?
Quý Hiên: Như anh Dũng nói, do được ưu đãi vùng miền, lương và thu nhập có tính chất lương của giáo viên ở vùng nông thôn tương đối khá hơn so với giáo viên ở thành thị và so với mặt bằng cộng đồng dân cư vùng họ sống. Nhưng giáo dục ở thành thị tuy chiếm tỉ lệ không cao nhưng lại là bộ mặt nổi bật của cả hệ thống giáo dục. Mọi suy thoái, mọi tiêu cực dường như từ khu vực đô thị lan toả dần khắp cả nước. Do đó, người ta mới có ấn tượng vì lương thấp nên chất lượng giáo dục thấp. Hệ luỵ mà người ta hay nhắc tới là giáo viên dạy thêm. Vì câu chuyện dạy thêm đấy mà khi nói đến giáo viên lương thấp là nhiều người phản đối, họ nói bây giờ giáo viên rất giàu. Rất nhiều thầy, cô ở trường công của Hà Nội đi xe rất xịn, có nhiều nhà. Thu nhập hàng tháng từ dạy thêm của các thầy cô giáo đó thậm chí lên đến hàng trăm triệu đồng.
Tôi quen biết những giáo viên – mức thu nhập có đến hàng trăm triệu hay không thì tôi không rõ – nhưng tôi tin chắc chắn mức 40 – 50 triệu đồng là mức mà tôi có thể tạm tính được cho họ và họ cũng thừa nhận. Trong số này có một anh là Phó Hiệu trưởng một trường THPT ở Hà Nội, là giáo viên dạy toán. Anh dạy luyện thi, học sinh học anh ấy không phải là học sinh chính khoá mà đến từ nhiều trường khác nhau. Anh mua được nhiều nhà từ nguồn tiền dạy thêm. Nhưng vừa rồi, sau kỳ thi tuyển sinh ĐH, anh ấy tâm sự trong đám học sinh do anh luyện thi năm nay không có cháu nào thi sư phạm. Câu hỏi được đặt ra: các thầy có thu nhập cao, các cháu đều có thể nhìn thấy, nhưng tại sao các cháu không mơ ước đi theo nghề các thầy?
MC Hồng Nga: Có thể do giáo viên dạy thêm có mức thu nhập cao không phải là bức tranh chung?
Quý Hiên: Không. Tôi giải thích theo khía cạnh khác: thu nhập từ dạy thêm là cái thu nhập mà các em học sinh không mơ ước. Có thể học sinh cũng sẽ nhận thấy, hoạt động dạy thêm đó không mang lại lợi ích cho hệ thống giáo dục. Nó có thể mang lại lợi ích cho các em: giúp đỗ ĐH, đỗ trường chuyên. Nó cũng giúp cho thầy nâng cao thu nhập. Nhưng nó có nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục hay không, tôi nghĩ các em thấy được điều đó. Vì thế mà các em không mơ ước mình có thu nhập cao từ việc đi dạy thêm.
Hồng Nga: Tôi đọc trên trang Học Thế Nào tại địa chỉ http://hocthenao.vn – một trang hiện nay khá nổi tiếng về đề tài giáo dục – có một bài viết, trong đó cung cấp một bảng gồm các con số được khảo sát đầu năm 2010 ở 27 trường của 5 tỉnh/ thành: Hà Giang, Phú Yên, Đăk Lăk, Tây Ninh, TP HCM. Theo đó giáo viên cấp tiểu học ở Hà Giang có mức lương trung bình là 3.492.000 đ/tháng, trung học 3,4 triệu đồng; Phú Yên – tiểu học 2,7 triệu đ, THCS 2,5 triệu đ, THPT tầm 2,7 triệu đ… Con số không thay đổi ở các tỉnh khác. Riêng TP HCM nhóm nghiên cứu hy vọng con số cao hơn nhưng thực ra thì không. Tiểu học trung bình 3,1 triệu đ/tháng, THCS 2,8 triệu đ/ tháng, THPT là 2,9 triệu đ/tháng.
Cũng bài báo đó, khảo sát ý kiến của các giáo viên thì 49,3% giáo viên tiểu học trả lời đồng lương đó không đủ sống; 48,6% cho rằng đủ sống nếu khéo thu vén. Để có tích luỹ cho cuộc sống từ đồng lương thì 1% cho là có thể. Một điều tra ngẫu nhiên với 526 giáo viên cho thấy 40,9% giáo viên tiểu học, 59% giáo viên THCS, 52,4% giáo viên THPT không muốn làm nghề dạy học nếu được phép chọn lại nghề nghiệp. Bởi mức lương như vậy không đủ cho họ, cho con họ đi học trường công lập bình thường, không đủ tiền xăng xe đi lại, tiền ăn uống…
Bùi Mạnh Nhị: Một vài dẫn chứng chị Hiên nếu ra, số người có thu nhập 30 – 40 triệu đồng/ tháng, thậm chí trăm triệu đồng/ tháng, số đó ít lắm, nếu tính trên tổng thể 1,2 triệu giáo viên. Nhưng tôi tin không thầy cô giáo nào muốn phải dạy thêm. Dạy thêm ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ. Lao động dạy học là một lao động đặc biệt, đó không chỉ là loại hình lao động trí tuệ mà còn là lao động thể chất. Tôi đã từng là giáo viên nên tôi biết, với một ngày dạy 4 – 5 tiếng có thể ta sẽ không thấy mệt trong những ngày đầu nhưng nếu cứ kéo dài như vậy rất hao tổn cho sức khoẻ. Hơn nữa trong nhìn nhận của dư luận xã hội, cái tiếng “dạy thêm” không mang sắc thái tốt đẹp gì. Bản thân các thầy cô giáo tham gia dạy thêm cảm nhận được điều đó, nhưng vì lương thấp, họ buộc phải chấp nhận.
Hiện nay, Hội nghị Trung ương 8 khoá 11 đã thông qua nghị quyết về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục. Chúng tôi hy vọng trong quá trình triển khai nghị quyết, đồng lương của giáo viên sẽ được tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng trong tổng thể, trong so sánh với các ngành nghề khác để làm sao cái lao động của người thầy mà chúng ta vẫn tôn vinh, người thầy là kỹ sư tâm hồn, nghề giáo viên là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý…, được thực sự nâng lên, để họ làm tốt trách nhiệm của mình.
Hồng Nga: Người ta vẫn thường nói, giáo dục là quốc sách hàng đầu, nhưng chính sách lương dành cho những con người đang thi công cái công trình quốc sách hàng đầu đó liệu đã tương xứng hay chưa? Có người chia sẻ hiện nay Luật GD và các nghị định của Chính phủ chưa thể hiện được đầy đủ điều khẳng định lương giáo viên được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp trong nghị quyết TƯ 2 khoá 8 năm 1996…
Bùi Mạnh Nhị: Đó là điều mà lần này mà trong đề án đổi mới căn bản toàn diện GD&ĐT, Bộ GD&ĐT và Ban Tuyên giáo TƯ đề nghị TƯ cho phép được thực hiện nghị quyết TƯ 2 khoá 8 về lương giáo viên: được xếp cao nhất trong hệ thống lương của nhà nước. Ngành GD cũng như chúng ta đều rất chia sẻ cái khó khăn của nền kinh tế đất nước. Các bạn hãy hình dung, nếu mỗi giáo viên một tháng được tăng 100.000 đồng thì nhà nước phải bỏ ra thêm 131 tỷ đồng, một con số rất lớn!
Nguyễn Quang Dũng: Tôi xin phép được trao đổi về quan điểm tiền lương cao nhất đối với ngành GD. Như tôi nói, tiền lương gồm tiền lương theo ngạch bậc và các phụ cấp lương. Theo chế độ thiết kế lương hiện hành, các ngành viên chức áp dụng bảng lương chung, vì thế giáo viên cũng được áp dụng bảng lương theo ngạch bậc tương tự như các ngành khác. Nhưng phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo hiện nay là cao nhất. Mức phụ cấp ưu đãi cho giáo viên ở vùng đặc biệt khó khăn cao nhất là 70%. Họ còn được thêm phụ cấp thâm niên, mà phụ cấp này còn được dùng đóng bảo hiểm để được tính hưởng khi nghỉ hưu. Nếu nói về tương quan tiền lương, hiện nay Chính phủ đã thiết kế ưu đãi tiền lương đối với hệ thống giáo viên cao nhất trong hệ thống viên chức.
Tôi không biết chị Hiên nói thế nào chứ tôi có nhiều bạn là nhà giáo thì họ rất yêu nghề. Tôi có con học lớp 4 Trường Tiểu học Dịch Vọng A, khi phụ huynh đề nghị dạy thêm thì cô giáo xin phép không dạy, cô sẽ dạy hết cho ở trên lớp nên không cần dạy thêm. Đấy, có những nhà giáo rất tâm huyết.
Nhưng có câu chuyện thế này, theo Luật GD, tiểu học không thu học phí. Thực tế chúng ta vẫn thu. Tại sao? Vì ta dạy 2 buổi/ ngày, nên vẫn thu. Trường con tôi thu 100.000 đồng/ tháng và 50.000 đồng/tháng tiền bán trú. Tại sao những khoản thu đó chúng ta không hợp pháp hoá, coi đấy là nguồn thu nhập của giáo viên, để khẳng định cho người ta là chính danh họ được hưởng. Giờ lại chỉ nhìn vào tiền lương ngân sách rồi nói tiền lương thấp! Tôi cho là cũng phải tính lại việc này. Như thế mới có một cơ chế để cho nhà giáo xứng đáng được hưởng. Giờ cứ so ngành này với ngành kia hơn nhau mấy % cũng là mệt.
Hồng Nga: Cũng trong bài viết trên trang Học Thế Nào – cùng học đại học nhưng ngạch lương GV cấp cao chỉ bằng ngạch lương chuyên viên chính của các nghề như lưu trữ, chuẩn đoán bệnh động vật, bảo vệ thực vật, giám định thuốc thú y, kiểm nghiệm giống cây trồng. Chưa kể ngạch GV Trung học Cao cấp mã số 15. 112 yêu cầu phải có trình độ sau ĐH mà hệ số lương bậc 1 là 4,00 trong khi ngạch chuyên viên chính của các ngành khác yêu cầu chỉ cần tốt nghiệp ĐH nhưng lại có hệ số lương bậc 1 là 4,40.
Nguyễn Quang Dũng: Cái này là vấn đề của kỹ thuật thiết kế. Hiện nay ngành GD có bậc ĐH –CĐ, sau đó đến THPT, rồi THCS, tiểu học, mầm non. Ngạch GV phải được thiết kế áp vào bảng lương chung. Ví dụ giáo sư và giảng viên cao cấp tương đương chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, bác sĩ cao cấp của các ngành khác; Phó GS, giảng viên chính tương đương với bác sĩ chính…, đại để thế. GV Trung học theo quy định chỉ có hai ngạch: GV Trung học và GV Trung học cao cấp. Mà GV Trung học cao cấp về trình độ không thể bằng Phó GS được. Trong thiết kế có vấn đề ngay trong nội bộ của ngành…
Bùi Mạnh Nhị: Chỗ này xin được trao đổi với anh Dũng. Phóng viên Hồng Nga nêu rất là đúng, và chúng tôi cũng thấy rất là bức xúc về việc này. Để đạt được GV Trung học cao cấp không dễ dàng. Họ không chỉ có trình độ ĐH mà phải có thạc sĩ, có thâm niên nghề nhất định nhưng chúng ta đang xếp họ vào nhóm viên chức loại II với bậc khởi điểm là 4,00 trong khi nhóm I là 4,40; bậc 8 của GV Trung học cao cấp là 6,38 trong khi viên chức loại I là 6,78. Rõ ràng là đội ngũ giáo viên có sự thua thiệt. Chúng tôi rất mong ngành nội vụ và ngành tài chính sắp tới khi xây dựng thang bảng lương mới cần tính toán đầy đủ. Nhất là từ TƯ 2 khoá 8, lần này TƯ 8 khoá 11 lại khẳng định phải có đặc thù, phải có ưu đãi trong việc sắp xếp lương cũng như các chế độ khác.
Nguyễn Quang Dũng: Báo cáo anh Nhị, việc sắp xếp bậc lương viên chức của  ngành GD chủ yếu do Bộ GD&ĐT đề xuất, nhưng quan trọng là sắp xếp thế nào? Ví dụ mối tương quan giữa GV Trung học cao cấp với Phó GS và giảng viên chính thế nào? Mình không nên đặt vấn đề so với các ngành khác. Các anh cứ thiết kế sắp xếp trong hệ thống của mình và các ngành sẽ ủng hộ anh. Cái quan trọng là trong nội bộ.
Quý Hiên: Qua trao đổi với các chuyên gia và những trí thức VN làm việc ở nước ngoài, họ có nhận xét điều quan trọng nhất là cơ chế phân phối thu nhập của chúng ta thiếu sự thu hút, thiếu sự hấp dẫn đối với người lao động. Việc trả lương cào bằng khiến chúng ta tiêu rất tốn tiền ngân sách nhưng vẫn chẳng ai thấy hài lòng – thoả mãn với đồng lương. Người ta cho rằng cần phải có cách đãi ngộ thế nào đó để cho những giáo viên có chất lượng giảng dạy tốt được hưởng mức vượt trội so với các đồng nghiệp, để những đồng nghiệp khác nhìn vào mà phấn đấu; thứ hai, ngoài xã hội nhìn vào những tinh hoa của ngành thì thấy ngành GD có thu nhập cũng rất tốt, để thấy ngành đó hấp dẫn.
Năm ngoái tôi phỏng vấn một bạn giáo viên của một trường THCS ở Hà Nội. Bạn này có thành tích học tập rất tốt. Là học sinh giỏi của một Trường THPT Thăng Long – một trong những trường tốt nhất của Hà Nội. Ở trường đó, khoá đó, bạn ấy là người duy nhất thi vào sư phạm. Bạn ấy thi ĐH điểm rất cao – khoảng 27, 28 điểm – và thành sinh viên của lớp cử nhân tài năng ở trường ĐH SP Hà Nội. Bạn ấy có cơ hội du học, nhưng lại không du học mà quay trở về dạy cấp II. Năm ngoái, khi lương tối thiểu chưa tăng, bạn ấy cho biết lương chỉ được 2,6 triệu đồng/tháng. Bạn ấy phải dạy thêm, mà một người như bạn ấy đi dạy thêm thì sẽ rất nhiều tiền. Nhưng bạn ấy lại nản lòng, và muốn tìm một con đường khác. Có thể bạn ấy sẽ tìm một nghề khác có thu nhập khởi điểm 10 – 15 triệu đồng/tháng.
Hồng Nga: Chúng ta đang nói giáo dục là quốc sách hàng đầu. Vậy chính sách lương phải thể hiện được điều đó. Nhưng con số mà chúng tôi tìm kiếm không chứng tỏ điều đó, như chúng tôi đã nói…
Nguyễn Quang Dũng: Tôi vẫn cho rằng với bảng lương hiện nay không thể nói ngành GD có hệ số lương thấp hơn các ngành khác. Họ được áp dụng bảng lương chung và được hưởng thêm phụ cấp ưu đãi theo nghề. Theo nguyên tắc thiết kế tiền lương hiện hành, tiền lương theo ngạch bậc được áp dụng theo bảng lương chung. Cái gọi là điều kiện lao động và ưu đãi được phụ cấp theo nghề. Hiện nay ngành GD được hưởng phụ cấp cao nhất là 70%. Theo Nghị định 204 thì phụ cấp ưu đãi cao nhất chỉ 50%  nhưng ngành GD vẫn được 70% theo nghị định 61. Như vậy đã được ưu đãi. Cộng thêm việc Chính phủ mới bổ sung phụ cấp thâm niên nghề đối với nhà giáo. Như thế có thể khẳng định tiền lương trong tương quan đó.
Còn nếu so sánh với cái gọi là thu nhập thì tôi không dám nói. Hiện nay thu nhập bên ngoài doanh nghiệp thì nó khác. Còn so trong hệ thống, cùng trong hệ thống cán bộ công chức viên chúng, chúng tôi có bảng tính đàng hoàng, ra được chi tiết là ngành GD cao nhất.
Tiền lương là lương và phụ cấp. Nghề giáo, ngoài lương còn được hưởng 9 loại phụ cấp khác: ưu đãi, thâm niên, trách nhiệm đối với trường chuyên biệt, thu hút ở vùng đặc biệt khó khăn, lưu động, chức vụ lãnh đạo.v.v… Ngoài ra còn được hưởng các chế độ chính sách như các cán bộ công chức viên chức ngành khác. Nếu nói tổng thể, nhà giáo có tiền lương cao nhất.
Bùi Mạnh Nhị: Không phải nhà giáo nào cũng được hưởng tất cả 9 loại phụ cấp. Tôi muốn quay trở lại vấn đề mà phóng viên Hồng Nga đã đặt ra: GD là quốc sách hàng đầu.
Cách đây 8 – 9 năm, nhờ có quy định những em thi vào sư phạm được miễn học phí mà đầu vào của chúng ta rất tốt. Hồi đó tôi còn là hiệu trưởng trường ĐH SP TP HCM, GS Đinh Quang Báo là hiệu trưởng trường ĐH SP Hà Nội. Khi đó chúng tôi tham gia một cuộc gặp gỡ ở Hải Phòng nên nói chuyện với nhau đầy tự hào, rằng cho dẫu có hàng tỉ đồng chúng ta cũng không mua được cái chất lượng đầu vào đó. Sinh viên vào SP toán trường tôi lấy đến 28 điểm, còn trường SP Hà Nội lấy đến 29 điểm. Các ngành SP khác điểm cũng rất cao.
Nhưng sau đó, chính sách miễn học phí không còn tác dụng nữa. Các em nghĩ đến đầu ra. Không chỉ lương thấp so với thực tế đời sống mà ngay cả so với một số ngành nghề khác, lương giáo viên đâu có cao! Theo thang bảng lương của nhà nước, giáo viên trung học cao cấp chỉ được xếp nhóm hạng II. Trong khi đó kiến trúc sư chính, kỹ sư chính, định chuẩn viên chính, giám định viên chính… được xếp loại I. Nếu Đảng, Nhà nước đã xác định “giáo dục là quốc sách hàng đầu” thì nghề sư phạm, các thầy cô giáo cũng cần được đặt vào vị trí hàng đầu đó.
Nhân đây tôi xin có thống kê, kể cả tất cả các loại phụ cấp, tính theo mức lương của năm 2013 khi mà lương tối thiểu được xác định lại, lương giáo viên mầm non bình quân là hơn 4,8 triệu đ/tháng; tiểu học và THCS bình quân hơn 5,2 triệu đ/tháng; THPT hơn 5,5 triệu đ/tháng. Với khu vực thành thị ta thấy đồng lương đó rất khó, nhất là với giáo viên trẻ – nhiều người không có nhà, phải ở nhà thuê, rồi họ phải mua phương tiện để đi lại… Rất khó khăn.
Cho nên lần này với đề án đổi mới căn bản toàn diện GD, chúng tôi đã đề nghị và TƯ đã thông qua nghị quyết, phải cho thực hiện theo tinh thần Nghị quyết TƯ 2 khoá 8 là phải cho lương giáo viên được xếp cao nhất trong ngạch bậc thang bảng lương của nhà nước và chú ý tính toán tương quan với các ngành khác, đồng thời ngành GD&ĐT vẫn tiếp tục được nhận phụ cấp theo ngành nghề như hiện nay. Ngoài ra chúng tôi cũng đề nghị các thầy cô giáo phải được trả lương theo năng lực và theo hiệu quả công việc.
Nhân có đại diện ngành Nội vụ ở đây, chúng tôi đề xuất luôn. Chúng tôi vẫn nói với nhau, trong tam giác vấn đề Người – Việc – Tiền thì ngành GD&ĐT chỉ gánh việc. Người, lương – tài chính chúng tôi không được quyết. Tuyển dụng thế nào là do bên nội vụ. Tài chính là do bên tài chính. Cho nên ngành GD&ĐT các địa phương gặp rất nhiều khó khăn. Trong đề án lần này chúng tôi đề nghị cho ngành GD&ĐT các địa phương (mầm non, phổ thông, chuyên nghiệp) được tham gia, xin nhấn mạnh là được tham gia thôi, quyết định về mặt con người và về mặt tài chính. Có như vậy chúng ta mới có những cải tổ.

Nghị quyết TW8 về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT

A – Tình hình và nguyên nhân
1- Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cụ thể là: Đã xây dựng được hệ thống giáo dục và đào tạo tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa. Số lượng học sinh, sinh viên tăng nhanh, nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng, với cơ cấu ngày càng hợp lý. Chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo đạt mức 20% tổng chi ngân sách nhà nước. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh; hệ thống giáo dục và đào tạo ngoài công lập góp phần đáng kể vào phát triển giáo dục và đào tạo chung của toàn xã hội. Công tác quản lý giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến nhất định.
Cả nước đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000; phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010; đang tiến tới phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; củng cố và nâng cao kết quả xóa mù chữ cho người lớn. Cơ hội tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách; cơ bản bảo đảm bình đẳng giới trong giáo dục và đào tạo.
Những thành tựu và kết quả nói trên, trước hết bắt nguồn từ truyền thống hiếu học của dân tộc; sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, của mỗi gia đình và toàn xã hội; sự tận tụy của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; sự ổn định về chính trị cùng với những thành tựu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
2- Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất.
Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
3- Những hạn chế, yếu kém nói trên do các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” còn chậm và lúng túng. Việc xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch và chương trình phát triển giáo dục-đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội.
- Mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng. Bệnh hình thức, hư danh, chạy theo bằng cấp… chậm được khắc phục, có mặt nghiêm trọng hơn. Tư duy bao cấp còn nặng, làm hạn chế khả năng huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục, đào tạo.
- Việc phân định giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các cơ sở giáo dục, đào tạo chưa rõ. Công tác quản lý chất lượng, thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa được coi trọng đúng mức. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và gia đình chưa chặt chẽ. Nguồn lực quốc gia và khả năng của phần đông gia đình đầu tư cho giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu.
B- Định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
I- Quan điểm chỉ đạo
1- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
2- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.
3- Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
4- Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
5- Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục và đào tạo.
6- Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo.
7- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.

II- Mục tiêu
1- Mục tiêu tổng quát
Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
2- Mục tiêu cụ thể
- Đối với giáo dục mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ, hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015, nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo và miễn học phí trước năm 2020. Từng bước chuẩn hóa hệ thống các trường mầm non. Phát triển giáo dục mầm non dưới 5 tuổi có chất lượng phù hợp với điều kiện của từng địa phương và cơ sở giáo dục.
- Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020.
Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông và tương đương.
- Đối với giáo dục nghề nghiệp, tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm nghề nghiệp. Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật công nghệ của thị trường lao động trong nước và quốc tế.
- Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
- Đối với giáo dục thường xuyên, bảo đảm cơ hội cho mọi người, nhất là ở vùng nông thôn, vùng khó khăn, các đối tượng chính sách được học tập nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và chất lượng cuộc sống; tạo điều kiện thuận lợi để người lao động chuyển đổi nghề; bảo đảm xóa mù chữ bền vững. Hoàn thiện mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên và các hình thức học tập, thực hành phong phú, linh hoạt, coi trọng tự học và giáo dục từ xa.
- Đối với việc dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài, có chương trình hỗ trợ tích cực việc giảng dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, góp phần phát huy sức mạnh của văn hóa Việt Nam, gắn bó với quê hương, đồng thời xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị với nhân dân các nước.
III- Nhiệm vụ, giải pháp
1- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với đổi mới giáo dục và đào tạo
Quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo trong hệ thống chính trị, ngành giáo dục và đào tạo và toàn xã hội, tạo sự đồng thuận cao coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nâng cao nhận thức về vai trò quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; người học là chủ thể trung tâm của quá trình giáo dục; gia đình có trách nhiệm phối hợp với nhà trường và xã hội trong việc giáo dục nhân cách, lối sống cho con em mình.
Đổi mới công tác thông tin và truyền thông để thống nhất về nhận thức, tạo sự đồng thuận và huy động sự tham gia đánh giá, giám sát và phản biện của toàn xã hội đối với công cuộc đổi mới, phát triển giáo dục.
Coi trọng công tác phát triển đảng, công tác chính trị, tư tưởng trong các trường học, trước hết là trong đội ngũ giáo viên. Bảo đảm các trường học có chi bộ; các trường đại học có đảng bộ. Cấp ủy trong các cơ sở giáo dục-đào tạo phải thực sự đi đầu đổi mới, gương mẫu thực hiện và chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân về việc tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo. Lãnh đạo nhà trường phát huy dân chủ, dựa vào đội ngũ giáo viên, viên chức và học sinh, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể và nhân dân địa phương để xây dựng nhà trường.
Các bộ, ngành, địa phương xây dựng quy hoạch dài hạn phát triển nguồn nhân lực, dự báo nhu cầu về số lượng, chất lượng nhân lực, cơ cấu ngành nghề, trình độ. Trên cơ sở đó, đặt hàng và phối hợp với các cơ sở giáo dục, đào tạo tổ chức thực hiện.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, giải quyết dứt điểm các hiện tượng tiêu cực kéo dài, gây bức xúc trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
2- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học
Trên cơ sở mục tiêu đổi mới giáo dục và đào tạo, cần xác định rõ và công khai mục tiêu, chuẩn đầu ra của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và chuyên ngành đào tạo. Coi đó là cam kết bảo đảm chất lượng của cả hệ thống và từng cơ sở giáo dục và đào tạo; là căn cứ giám sát, đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo.
Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo dục thể chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp. Dạy ngoại ngữ và tin học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của người học. Quan tâm dạy tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số; dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài.
Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học.
Tiếp tục đổi mới và chuẩn hóa nội dung giáo dục mầm non, chú trọng kết hợp chăm sóc, nuôi dưỡng với giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý, yêu cầu phát triển thể lực và hình thành nhân cách.
Xây dựng và chuẩn hóa nội dung giáo dục phổ thông theo hướng hiện đại, tinh gọn, bảo đảm chất lượng, tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên; giảm số môn học bắt buộc; tăng môn học, chủ đề và hoạt động giáo dục tự chọn. Biên soạn sách giáo khoa, tài liệu hỗ trợ dạy và học phù hợp với từng đối tượng học, chú ý đến học sinh dân tộc thiểu số và học sinh khuyết tật.
Nội dung giáo dục nghề nghiệp được xây dựng theo hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng, tác phong làm việc chuyên nghiệp để hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học.
Đổi mới mạnh mẽ nội dung giáo dục đại học và sau đại học theo hướng hiện đại, phù hợp với từng ngành, nhóm ngành đào tạo và việc phân tầng của hệ thống giáo dục đại học. Chú trọng phát triển năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết xã hội, từng bước tiếp cận trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới.
3- Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan
Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội.
Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông theo hướng giảm áp lực và tốn kém cho xã hội mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, trung thực, đánh giá đúng năng lực học sinh, làm cơ sở cho việc tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
Đổi mới phương thức đánh giá và công nhận tốt nghiệp giáo dục nghề nghiệp trên cơ sở kiến thức, năng lực thực hành, ý thức kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp. Có cơ chế để tổ chức và cá nhân sử dụng lao động tham gia vào việc đánh giá chất lượng của cơ sở đào tạo.
Đổi mới phương thức tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng kết hợp sử dụng kết quả học tập ở phổ thông và yêu cầu của ngành đào tạo. Đánh giá kết quả đào tạo đại học theo hướng chú trọng năng lực phân tích, sáng tạo, tự cập nhật, đổi mới kiến thức; đạo đức nghề nghiệp; năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ; năng lực thực hành, năng lực tổ chức và thích nghi với môi trường làm việc. Giao quyền tự chủ tuyển sinh cho các cơ sở giáo dục đại học.
Thực hiện đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo ở cấp độ quốc gia, địa phương, từng cơ sở giáo dục, đào tạo và đánh giá theo chương trình của quốc tế để làm căn cứ đề xuất chính sách, giải pháp cải thiện chất lượng giáo dục, đào tạo.
Hoàn thiện hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục. Định kỳ kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo và các chương trình đào tạo; công khai kết quả kiểm định. Chú trọng kiểm tra, đánh giá, kiểm soát chất lượng giáo dục và đào tạo đối với các cơ sở ngoài công lập, các cơ sở có yếu tố nước ngoài. Xây dựng phương thức kiểm tra, đánh giá phù hợp với các loại hình giáo dục cộng đồng.
Đổi mới cách tuyển dụng, sử dụng lao động đã qua đào tạo theo hướng chú trọng năng lực, chất lượng, hiệu quả công việc thực tế, không quá nặng về bằng cấp, trước hết là trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị. Coi sự chấp nhận của thị trường lao động đối với người học là tiêu chí quan trọng để đánh giá uy tín, chất lượng của cơ sở giáo dục đại học, nghề nghiệp và là căn cứ để định hướng phát triển các cơ sở giáo dục, đào tạo và ngành nghề đào tạo.
4- Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập
Trước mắt, ổn định hệ thống giáo dục phổ thông như hiện nay. Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới hệ thống giáo dục phổ thông phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế phát triển giáo dục của thế giới.
Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Thống nhất tên gọi các trình độ đào tạo, chuẩn đầu ra. Đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp sau trung học phổ thông, liên thông giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Tiếp tục sắp xếp, điều chỉnh mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và các viện nghiên cứu theo hướng gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học. Thực hiện phân tầng cơ sở giáo dục đại học theo định hướng nghiên cứu và ứng dụng, thực hành. Hoàn thiện mô hình đại học quốc gia, đại học vùng; củng cố và phát triển một số cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới.
Khuyến khích xã hội hóa để đầu tư xây dựng và phát triển các trường chất lượng cao ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo. Tăng tỷ lệ trường ngoài công lập đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Hướng tới có loại hình cơ sở giáo dục do cộng đồng đầu tư.
Đa dạng hóa các phương thức đào tạo. Thực hiện đào tạo theo tín chỉ. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng năng lực, kỹ năng nghề tại cơ sở sản xuất, kinh doanh. Có cơ chế để tổ chức, cá nhân người sử dụng lao động tham gia xây dựng, điều chỉnh, thực hiện chương trình đào tạo và đánh giá năng lực người học.
5- Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng
Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo và trách nhiệm quản lý theo ngành, lãnh thổ của các bộ, ngành, địa phương. Phân định công tác quản lý nhà nước với quản trị của cơ sở giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục, đào tạo.
Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nhất là về chương trình, nội dung và chất lượng giáo dục và đào tạo đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo của nước ngoài tại Việt Nam. Phát huy vai trò của công nghệ thông tin và các thành tựu khoa học-công nghệ hiện đại trong quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo.
Các cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo địa phương tham gia quyết định về quản lý nhân sự, tài chính cùng với quản lý thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp.
Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng và quản lý quá trình đào tạo; chú trọng quản lý chất lượng đầu ra. Xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng giáo dục, đào tạo.
Đổi mới cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin trong quản lý giáo dục, đào tạo. Thực hiện cơ chế người học tham gia đánh giá hoạt động giáo dục, đào tạo; nhà giáo tham gia đánh giá cán bộ quản lý; cơ sở giáo dục, đào tạo tham gia đánh giá cơ quan quản lý nhà nước.
Hoàn thiện cơ chế quản lý cơ sở giáo dục, đào tạo có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam; quản lý học sinh, sinh viên Việt Nam đi học nước ngoài bằng nguồn ngân sách nhà nước và theo hiệp định nhà nước.
Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; phát huy vai trò của hội đồng trường. Thực hiện giám sát của các chủ thể trong nhà trường và xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý các cấp; bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch.
6- Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo. Tiến tới tất cả các giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải có trình độ từ đại học trở lên, có năng lực sư phạm. Giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ từ thạc sỹ trở lên và phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Cán bộ quản lý giáo dục các cấp phải qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý.
Phát triển hệ thống trường sư phạm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; ưu tiên đầu tư xây dựng một số trường sư phạm, trường sư phạm kỹ thuật trọng điểm; khắc phục tình trạng phân tán trong hệ thống các cơ sở đào tạo nhà giáo. Có cơ chế tuyển sinh và cử tuyển riêng để tuyển chọn được những người có phẩm chất, năng lực phù hợp vào ngành sư phạm.
Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp.
Có chế độ ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải trên cơ sở đánh giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác. Có chế độ ưu đãi và quy định tuổi nghỉ hưu hợp lý đối với nhà giáo có trình độ cao; có cơ chế miễn nhiệm, bố trí công việc khác hoặc kiên quyết đưa ra khỏi ngành đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, không đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Lương của nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng.
Khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Có chính sách hỗ trợ giảng viên trẻ về chỗ ở, học tập và nghiên cứu khoa học. Bảo đảm bình đẳng giữa nhà giáo trường công lập và nhà giáo trường ngoài công lập về tôn vinh và cơ hội đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ… Tạo điều kiện để chuyên gia quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giảng dạy và nghiên cứu ở các cơ sở giáo dục, đào tạo trong nước.
Triển khai các giải pháp, mô hình liên thông, liên kết giữa các cơ sở đào tạo, nhất là các trường đại học với các tổ chức khoa học và công nghệ, đặc biệt là các viện nghiên cứu.
7- Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo, ngân sách nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách; chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Từng bước bảo đảm đủ kinh phí hoạt động chuyên môn cho các cơ sở giáo dục, đào tạo công lập. Hoàn thiện chính sách học phí.
Đối với giáo dục mầm non và phổ thông, Nhà nước ưu tiên tập trung đầu tư xây dựng, phát triển các cơ sở giáo dục công lập và có cơ chế hỗ trợ để bảo đảm từng bước hoàn thành mục tiêu phổ cập theo luật định. Khuyến khích phát triển các loại hình trường ngoài công lập đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục chất lượng cao ở khu vực đô thị.
Đối với giáo dục đại học và đào tạo nghề nghiệp, Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng một số trường đại học, ngành đào tạo trọng điểm, trường đại học sư phạm. Thực hiện cơ chế đặt hàng trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế-kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng của một số loại hình dịch vụ đào tạo (không phân biệt loại hình cơ sở đào tạo), bảo đảm chi trả tương ứng với chất lượng, phù hợp với ngành nghề và trình độ đào tạo. Minh bạch hóa các hoạt động liên danh, liên kết đào tạo, sử dụng nguồn lực công ; bảo đảm sự hài hòa giữa các lợi ích với tích luỹ tái đầu tư.
Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học; khuyến khích liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín. Có chính sách khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục và đào tạo trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của người học, người sử dụng lao động và cơ sở giáo dục, đào tạo. Đối với các ngành đào tạo có khả năng xã hội hóa cao, ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và khuyến khích tài năng. Tiến tới bình đẳng về quyền được nhận hỗ trợ của Nhà nước đối với người học ở trường công lập và trường ngoài công lập. Tiếp tục hoàn thiện chính sách hỗ trợ đối với các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và cơ chế tín dụng cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay để học. Khuyến khích hình thành các quỹ học bổng, khuyến học, khuyến tài, giúp học sinh, sinh viên nghèo học giỏi. Tôn vinh, khen thưởng xứng đáng các cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc và đóng góp nổi bật cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động tham gia hỗ trợ hoạt động đào tạo. Xây dựng cơ chế, chính sách tài chính phù hợp đối với các loại hình trường. Có cơ chế ưu đãi tín dụng cho các cơ sở giáo dục, đào tạo. Thực hiện định kỳ kiểm toán các cơ sở giáo dục-đào tạo.
Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiên cố hóa trường, lớp học; có chính sách hỗ trợ để có mặt bằng xây dựng trường. Từng bước hiện đại h óa cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin. Bảo đảm đến năm 2020 số học sinh mỗi lớp không vượt quá quy định của từng cấp học.
Phân định rõ ngân sách chi cho giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học với ngân sách chi cho cơ sở đào tạo, bồi dưỡng thuộc hệ thống chính trị và các lực lượng vũ trang. Giám sát chặt chẽ, công khai, minh bạch việc sử dụng kinh phí.
8- Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý
Quan tâm nghiên cứu khoa học giáo dục và khoa học quản lý, tập trung đầu tư nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan nghiên cứu khoa học giáo dục quốc gia. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và chuyên gia giáo dục. Triển khai chương trình nghiên cứu quốc gia về khoa học giáo dục.
Tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học. Gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và nghiên cứu, giữa các cơ sở đào tạo với các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Ưu tiên đầu tư phát triển khoa học cơ bản, khoa học mũi nhọn, phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng thí nghiệm chuyên ngành, trung tâm công nghệ cao, cơ sở sản xuất thử nghiệm hiện đại trong một số cơ sở giáo dục đại học. Có chính sách khuyến khích học sinh, sinh viên nghiên cứu khoa học.
Khuyến khích thành lập viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, hỗ trợ đăng ký và khai thác sáng chế, phát minh trong các cơ sở đào tạo. Hoàn thiện cơ chế đặt hàng và giao kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ cho các cơ sở giáo dục đại học. Nghiên cứu sáp nhập một số tổ chức nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ với các trường đại học công lập.
Ưu tiên nguồn lực, tập trung đầu tư và có cơ chế đặc biệt để phát triển một số trường đại học nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực sớm đạt trình độ khu vực và quốc tế, đủ năng lực hợp tác và cạnh tranh với các cơ sở đào tạo và nghiên cứu hàng đầu thế giới.
9- Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo
Chủ động hội nhập quốc tế về giáo dục, đào tạo trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa và thành tựu khoa học, công nghệ của nhân loại. Hoàn thiện cơ chế hợp tác song phương và đa phương, thực hiện các cam kết quốc tế về giáo dục, đào tạo.
Tăng quy mô đào tạo ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước đối với giảng viên các ngành khoa học cơ bản và khoa học mũi nhọn, đặc thù. Khuyến khích việc học tập và nghiên cứu ở nước ngoài bằng các nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước. Mở rộng liên kết đào tạo với những cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín, chủ yếu trong giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp; đồng thời quản lý chặt chẽ chất lượng đào tạo.
Có cơ chế khuyến khích các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học và công nghệ ở Việt Nam. Tăng cường giao lưu văn hóa và học thuật quốc tế.
Có chính sách hỗ trợ, quản lý việc học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên Việt Nam đang học ở nước ngoài và tại các cơ sở giáo dục, đào tạo có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.
C- Tổ chức thực hiện
1- Các cấp ủy, tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tổ chức việc học tập, quán triệt tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động thực hiện Nghị quyết này. Lãnh đạo kiện toàn bộ máy tham mưu và bộ máy quản lý giáo dục và đào tạo; thường xuyên kiểm tra việc thực hiện, đặc biệt là kiểm tra công tác chính trị, tư tưởng và việc xây dựng nền nếp, kỷ cương trong các trường học, phát hiện và giải quyết dứt điểm các biểu hiện tiêu cực trong giáo dục và đào tạo.
2- Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, ban hành mới hệ thống pháp luật về giáo dục và đào tạo, các luật, nghị quyết của Quốc hội, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện Nghị quyết và giám sát việc thực hiện.
3- Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản dưới luật; xây dựng kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện và kịp thời điều chỉnh kế hoạch, giải pháp cụ thể phù hợp với yêu cầu thực tế, bảo đảm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết.
Thành lập Ủy ban quốc gia Đổi mới giáo dục và đào tạo do Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch Ủy ban.
4- Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết quả thực hiện Nghị quyết./.
Nguồn hocthenao.vn
Lên đầu trang
Vào giữa trang
Xuống cuối trang