Thứ Hai, 7 tháng 3, 2016

Cuộc chiến tranh 17-2-1979: Ngưỡng can thiệp quân sự của Liên Xô

Trong cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam năm 1979, Liên Xô không tấn công quân sự vào Trung Quốc. Điều đó giải thích ra sao?
Xem thêm:
>>  Cuộc chiến 17-2-1979: Mặt trận Biển Đông trong đối đầu căng thẳng...
Trước cuộc tấn công của Trung Quốc vào toàn tuyến biên giới phía bắc Việt Nam, Liên Xô cảnh cáo “Liên bang Xô Viết sẽ thực hiện những điều khoản đã ký kết Trong Hiệp định hợp tác, đoàn kết hữu nghị và tương trợ lẫn nhau (trong cả lĩnh vực quân sự) đã được ký với Việt Nam”.
Để biểu thị sự ủng hộ đối với Việt Nam và răn đe Trung Quốc, một cuộc biểu dương lực lượng khổng lồ dưới dạng một cuộc tập trận Hiệp đồng quân binh chủng lớn nhất trong lịch sử, đã được Liên Xô tổ chức vào đầu tháng 3-1979.
Cuộc động binh lớn nhất trong lịch sử Liên bang Xô viết
Bình luận về cuộc tập trận này, chuyên gia Aleksei Lensov cho biết, đó là cuộc biểu dương lực lượng mạnh mẽ nhất ở phía nam Liên Xô (tức phía Bắc Trung Quốc) trong vòng hơn hai trăm năm, với lực lượng được huy động lên đến 600.000 người, thuộc 6 quân khu của Liên Xô.
Trong giai đoạn từ ngày 12 đến 26-3, với mục đích tạo áp lực quân sự lên Trung Quốc, theo quyết định của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô, quân đội nước này đã tiến hành cuộc diễn tập hiệp đồng quân binh chủng và diễn tập hải quân có sử dụng đạn thật.
Cuộc tập trận được triển khai trên tất cả các quân khu vùng biên giới phía Đông, trên lãnh thổ Mông Cổ và trên biển Thái Bình Dương, huy động lực lượng của 29 sư đoàn bộ binh cơ giới, với số quân lên đến 250.000 quân nhân, 2.600 xe tăng, 900 máy bay và 80 chiến hạm.
Cuộc diễn tập bắt đầu bằng lệnh động viên và chuyển các đơn vị vào tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao nhất. Quân đội Liên Xô đã động viên 52.000 quân nhân dự bị, huy động hơn 5.000 xe máy của nông nghiệp sang phục vụ yêu cầu sẵn sàng chiến đấu.
Liên Xô luôn sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam (Ảnh tư liệu cuộc tập trận của Liên Xô mang tên “Phương Tây 81”, năm 1981)
Các trung đoàn máy bay chiến đấu từ lãnh thổ của Ukraine và Belarus cũng được điều chuyển đến miền đông Liên Xô, trong đó có một sư đoàn được triển khai ở Mông Cổ, trên một sân bay trọng yếu, chỉ cách Bắc Kinh 1,5 giờ bay.
Các cuộc chuyển quân trên của Không quân Xô Viết bao gồm toàn bộ đội hình máy bay chiến đấu, với các phi công được huấn luyện tốt nhất, cùng với tất cả các đơn vị và phân đội bảo dưỡng kỹ thuật trên không và mặt đất.
Trong tiến trình diễn tập, có những khoảng thời gian trong không trung có tới 10 trung đoàn không quân tuyến 1 (đội hình chiến đấu) hoạt động. Các kíp bay đã bay tổng cộng 5.000 giờ, đã sử dụng tới 1.000 quả bom và tên lửa trong diễn tập bắn đạn thật.
Những đợt diễn tập lớn nhất được thực hiện tại Mông Cổ, với sự tham gia của 6 sư đoàn Bộ binh cơ giới và tăng-thiết giáp, 3 trong số các đơn vị được điều động từ Siberia và Zabaikalia.
Ngoài ra, trên lãnh thổ Mông Cổ tham gia diễn tập có 3 sư đoàn không quân chiến trường, 2 lữ đoàn không quân độc lập, các đơn vị và phân đội đặc chủng tăng cường.
Cũng trong giai đoạn đó, Liên Xô cũng đồng thời tiến hành các hoạt động diễn tập thực binh của các lực lượng trên vùng Viễn Đông và Đông Kazakhstan (giáp giới Trung Quốc), với các đơn vị binh chủng hợp thành cấp sư đoàn trở lên và các đơn vị không quân, phối hợp với lực lượng Biên phòng.
Tại các vùng có đường biên giới với Trung Quốc, lực lượng Xô Viết đã diễn tập các phương án tổ chức phòng ngự, đánh trả đội hình tiến công của đối phương, phản kích và chuyển sang phản công. Các đơn vị tên lửa chiến thuật cũng được đặt trong trạng thái báo động chiến đấu.
  Ngoài ra, tại biển Đông và biển Hoa Đông, gần 50 chiến hạm của Hạm đội Thái Bình Dương, trong số đó có 6 tàu ngầm đã trực chiến sẵn sàng chiến đấu và tiến hành tập trận tiêu diệt hải quân đối phương. Tại vùng Primorie (ven biển Viễn Đông) đã diễn ra các cuộc đổ bộ của hải quân đánh bộ Liên Xô.


Những ý đồ tác chiến thật sự nghiêm túc được ông Eugene, nguyên Đại đội trưởng Đại đội 8 - Trung đoàn 390, thuộc sư đoàn hải quân đánh bộ số 55 miêu tả lại: Vào tháng 2-1979, trung đoàn đã được đặt trong trạng thái có chiến tranh.


Cả đội hình sư đoàn đã thực hiện nhiệm vụ diễn tập chiến thuật trên biên giới với Trung Quốc trong đó có nội dung đổ bộ lên đất liền từ hướng biển, tiến hành các cuộc diễn tập đổ bộ tấn công cấp tiểu đoàn, có sử dụng đạn thật.
Để phục vụ cuộc tập trận này, Liên Xô đã huy động một khối lượng bảo đảm khổng lồ. Chỉ tính lượng dầu tiêu hao trong thời gian thực hiện các hoạt động diễn tập và giúp đỡ Việt nam, Bộ quốc phòng Liên Xô lúc đó đã phải phục hồi lại dự trữ trong vòng hai năm.


 Liên Xô sẵn sàng can thiệp quân sự


Trong hồi ký của các cựu quân nhân Liên Xô cho biết, Liên Xô hoàn toàn có khả năng sẽ can thiệp quân sự khi cần thiết và khi đó Trung Quốc đã được cảnh báo trước một điều đã rõ ràng, nếu quân đội của họ không rút khỏi Việt Nam, họ sẽ phải chiến đấu trên hai mặt trận.

Trong trường hợp này, những hành động quân sự nào Liên Xô sẽ thực hiện trong thời điểm ban đầu? Giới chuyên gia quân sự cho rằng, có quá nhiều sự lựa chọn hiệu quả đối với Liên Xô trong các hành động tấn công.
Viễn cảnh đáng lo ngại nhất là những hành động quân sự mà Liên Xô có thể triển khai trên chiều dài 4.500 km đường biên giới Xô - Trung, nơi có 44 sư đoàn sẵn sàng chiến đấu đang đóng quân.
Quân đội Liên Xô với các phương tiện đổ bộ tầm xa hoặc đổ bộ đường không có thể nhanh chóng đổ quân xuống vùng đồng bằng tuyết phủ của Tân Cương, có khả năng tấn công vào khu vực Mãn Châu - trung tâm công nghiệp nặng của Trung Quốc.
Trường hợp xấu nhất là kịch bản "ngày tận thế", theo cách gọi của các chuyên gia. Đó là đòn tấn công nhằm vào các cơ sở hạt nhân của Trung Quốc ở vùng hồ muối Lop Nor (hay còn gọi là La Bố Bạc) - nằm giữa sa mạc Taklamakan và sa mạc Kuruktag, thuộc phía Đông khu tự trị Duy Ngô Nhĩ - Tân Cương.
Mục tiêu này dường như thích hợp hơn cả trong sự đánh giá của quân đội Liên Xô bởi sự hủy diệt lớn, sức mạnh răn đe cao, tấn công phủ đầu trong tầm với của nhiều loại tên lửa Liên Xô.
Vùng hồ muối Lop Nor (hay còn gọi là La Bố Bạc) - vùng tập trung các cơ sở hạt nhân của Trung Quốc
Khi đó, Bộ Chính Trị Trung Quốc cũng đứng trước rất nhiều câu hỏi sinh tử:
Một là, liệu Liên Xô có phản ứng bằng cách tấn công từ phía bắc khiến quân đội Trung Quốc phải chiến đấu trên hai mặt trận?
Hai là liệu Liên Xô có nhân cơ hội để trục lợi từ tình hình căng thẳng Việt Nam-Trung Quốc hay không? Và phản ứng của thế giới, đặc biệt là của Mỹ trước sự gia tăng căng thẳng Trung-Xô sẽ ra sao?
Ba là, liệu leo thang chiến tranh với Việt Nam, dẫn đến sự can thiệp của Liên Xô sẽ gây những khó khăn thế nào đến chương trình hiện đại hóa nền kinh tế trong chiến lược “Cải cách mở cửa” của nước này?
Trong đó, mối lo lắng lớn nhất của nhà cầm quyền Bắc Kinh là phản ứng quân sự khó lường của Liên Xô.
Theo các phân tích tình báo của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Moscow có thể sẽ đưa ra 3 phương án quân sự nhằm đáp trả cuộc xâm lăng của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Kịch bản thứ nhất là một cuộc đột kích quân sự lớn bao gồm cả tấn công trực diện vào thủ đô Bắc Kinh. Kịch bản này khó có thể xảy ra, cùng lắm là một cuộc tấn công quy mô lên hàng loạt tỉnh phía bắc Trung Quốc, giống như chiến dịch Bắc Kinh đang tiến hành ở Việt Nam.
Thứ 2 là xúi giục các phần tử dân tộc thiểu số có vũ trang đang lưu vong ở Liên Xô quay về tấn công vào các tiền đồn Trung Quốc ở Tân Cương (Xinjiang) và Nội Mông (Inner Mongolia). Hoạt động này có thể sẽ gây bất ổn kéo dài đối với khu vực biên giới Trung Quốc.
Kịch bản này hoàn toàn có thể xảy ra nhưng trong trường hợp Bắc Kinh có ý định chiếm giữ lâu dài các khu vực mà quân đội nước này mới cướp đoạt được của Việt Nam, bởi nó không thể tiến hành ngay lập tức được.
Phương án thứ 3 sử dụng hàng loạt cuộc giao tranh nhỏ gây ra sự căng thẳng dọc tuyến biên giới giữa hai nước, khiến Trung Quốc liên tục phải đối phó với tình hình căng thẳng trên toàn tuyến biên giới. Đây là phương án dễ xảy ra nhất bởi Liên Xô đã tập trung một lượng binh lực khổng lồ ở khu vực giáp biên.
Ngoài ra, cũng có thể là Liên Xô sẽ kết hợp tất cả các phương án này khiến Trung Quốc đứng trước những đòn tấn công quân sự rất nguy hiểm, không chỉ trong thời gian trước mắt mà cả lâu dài về sau.
Do đó, mặc dù cũng đã điều chuyển binh lực rất lớn lên biên giới Xô-Trung nhưng trước cuộc tập trận rầm rộ của quân đội Liên Xô, Bắc Kinh hiểu rằng, nếu mở rộng chiến tranh ở Việt Nam, rất có thể họ sẽ phải nhận một đòn tấn công phủ đầu tàn khốc.
Thấy được ý định nghiêm túc của quân đội Liên Xô trong bối cảnh chủ lực ta đã lên biên giới và hiểu rằng không thể giành chiến thắng nếu không leo thang chiến tranh, nhà cầm quyền Bắc Kinh tuyên bố đã đạt được mục đích “dạy cho Việt Nam một bài học” và rút quân vào ngày 5-3-1979.

Liên Xô có tấn công Trung Quốc hay không? Và đâu là “mức ngưỡng” can thiệp?
Vào giai đoạn đó, một câu hỏi rất lớn được giới học giả quốc tế đặt ra là thực sự Liên Xô có ý định can dự vào cuộc chiến tranh này hay không? Và nếu có thì đâu là mức “ngưỡng” của cuộc chiến tranh, mà Liên Xô sẽ buộc phải thực hiện đòn tấn công quân sự vào Trung Quốc?

Tờ thời báo “The Times” vào tháng 3-1979 đã dẫn phân tích của các chuyên gia nhận định, nếu quân đội Việt Nam đủ khả năng kháng cự và vẫn giữ vững mặt trận thì Liên Xô sẽ chỉ tiến hành cuộc chiến tranh trên mặt trận ngoại giao, tăng cường viện trợ cho Việt Nam và chuẩn bị tâm thế “sẵn sàng can thiệp”.
Trước hết phải nói rằng, đúng như nhận định của tờ báo Anh “The Times”, ý định bảo vệ Việt Nam của Liên Xô là hết sức nghiêm túc nhưng nếu cuộc chiến tranh xâm lược vẫn nằm trong phạm vi đối phó của Việt Nam thì Liên Xô sẽ không can thiệp quân sự.
Tờ báo này cho rằng, nếu nước láng giềng tiếp tục leo thang chiến tranh, tấn công xuống đồng bằng, ví dụ như uy hiếp Hà Nội và Hải Phòng, hoặc đồn trú lâu dài trên những vùng đất chiếm được, thì để thể hiện sự kiên quyết và sức mạnh trước toàn thế giới, giữ lời cam kết với đồng minh, Liên Xô sẽ tham gia giải quyết xung đột.
Tuy nhiên, đó chỉ là những vấn đề mang tính tình huống phát sinh trong chiến tranh, còn trên thực tế, có nhiều vấn đề ở trên tầm đại cục, có ảnh hưởng lớn hơn đối với cả Việt Nam và trên tầm thế giới mà chúng ta phải suy xét đến.
Thứ nhất: Mặc dù không có một tuyên bố chính thức nào đưa ra, nhưng vào thời điểm Trung Quốc nổ súng tấn công, Việt Nam sẽ không nhờ Liên Xô can thiệp quân sự, bởi trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, quân dân Việt Nam chưa bao giờ cầu viện bất cứ nước nào đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Truyền thống độc lập, tự cường là bản chất tốt đẹp, là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, đã giúp dân tộc ta tự đứng vững trước hàng ngàn năm xâm lược và âm mưu đồng hóa của các thế lực bành trướng phương Bắc và trong cả lịch sử hiện đại.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cũng đã có nhiều lời đề nghị cử quân sang giúp đỡ nhưng Việt Nam đều từ chối, mặc dù chúng ta phải liên tiếp tiến hành 2 cuộc chiến tranh khốc liệt với 2 đế quốc mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ là Pháp và Mỹ.
Không thể có độc lập, tự chủ đúng nghĩa của nó trên sự vay mượn máu của dân tộc khác. Tinh thần tự tôn của Việt Nam là một yếu tố quan trọng khiến Liên Xô không can thiệp quân sự, nếu cuộc chiến vẫn nằm trong phạm vi kiểm soát được.

Nói như thế không phải là Việt Nam không cần sự giúp đỡ của Liên Xô mà chúng ta nên hiểu với ý nghĩa rằng, hành động đó chỉ đến khi Việt Nam không còn khả năng chống trả được, khi Trung Quốc vượt quá xa phạm vi một cuộc chiến “phản kích tự vệ” mà họ tuyên bố.
Do đó, nếu Trung Quốc không sử dụng đến các vũ khí có khả năng răn đe hạt nhân như không quân ném bom và lực lượng Pháo binh 2 (tên lửa đạn đạo), hoặc lực lượng hải quân Mỹ-Trung phối hợp tấn công từ hướng biển thì Việt Nam sẽ tự mình chống trả quân xâm lược để giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Thứ 2: Vào thời điểm đó, nếu Trung Quốc không leo thang xâm lược đến cấp độ cao hơn thì Liên Xô cũng sẽ không can thiệp quân sự, bởi đó chỉ là sự lựa chọn bắt buộc cuối cùng, bởi dùng đến chiến tranh để giải quyết chiến tranh bao giờ cũng là một phương án tồi tệ nhất.

Thực tế chúng ta cũng thấy, ngược với bản chất hung hăng, hiếu chiến của chủ nghĩa bá quyền, các dân tộc yêu chuộng hòa bình sẽ chỉ tiến hành chiến tranh trong trường hợp không còn biện pháp nào khác, nhất là đối với các cường quốc, bởi những hành động quân sự của họ đều có ảnh hưởng rất lớn đến cục diện chính trị thế giới.
Mỗi một sự can thiệp quân sự của các cường quốc vào một khu vực nào đó trên thế giới cũng sẽ dẫn đến những biến động địa-chính trị rất lớn trên toàn cầu. bởi vậy, vào thời điểm năm 1979, sự can thiệp quân sự của Liên Xô cũng sẽ chỉ được đưa ra, nếu không còn biện pháp nào khác.
Hơn nữa, mặc dù rất đau lòng trước tình cảnh nước bạn lâm vào cảnh chiến tranh tàn phá và rất muốn giúp Việt Nam đánh quân xâm lược Trung Quốc, nhưng Liên Xô cũng rất tin tưởng vào khả năng của quân đội Việt Nam trong đối phó với một cuộc chiến tranh thông thường.
Nước bạn sẽ chỉ “ra tay” nếu cuộc chiến vượt tầm khả năng của Việt Nam, cần phải có những biện pháp quân sự mạnh mẽ để răn đe cái đầu nóng quá mức của quân xâm lược. Còn nếu không, Liên Xô sẽ dừng lại ở mức độ ủng hộ, viện trợ, cố vấn và  sẵn sàng ra tay nếu cần thiết.
Do đó, kể cả trong trường hợp Bắc Kinh không rút quân sau tuyên bố ngày 5-3-1979 hoặc âm mưu đánh xuống đồng bằng thì Liên Xô cũng sẽ không can thiệp, bởi lúc đó chủ lực của ta đã bắt đầu tham chiến, khiến Trung Quốc hoàn toàn không có “cửa” thắng trong cuộc chiến tranh xâm lược này.

Bởi vậy, những luận điểm phê phán tính thực chất của Hiệp định hợp tác hữu nghị Việt-Xô chỉ là sự ngụy biện, nhằm li gián tình hữu nghị giữa 2 nước anh em, hoặc chưa hiểu hết về truyền thống tự cường của con người Việt Nam mới cho rằng, Liên Xô sẽ nổ súng ngay sau khi Trung Quốc xâm lược nước ta.
Tuy nhiên, về cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc năm 1979, rất nhiều bạn đã thắc mắc rằng, ngay từ đầu Bắc Kinh có ý định đánh xuống Hà Nội hay không? Hay ở miền Bắc lúc đó vẫn còn Quân đoàn 1, tại sao lại không tham chiến? Hoặc thắc mắc là vì sao Trung Quốc không huy động đến những lực lượng có tính răn đe mạnh như không quân hay tên lửa; còn Việt Nam cũng không dùng đến lực lượng không quân lúc đó đang rất mạnh?
Tất cả những điều này chúng ta sẽ tìm hiểu trong kỳ sau.
Nguồn Baodatviet

Cuộc chiến 17-2-1979: Mặt trận Biển Đông trong đối đầu căng thẳng...

Năm 1979, ngoài sự giúp đỡ về ngoại giao, cố vấn, viện trợ, Liên Xô đã điều 30 chiến hạm đến Biển Đông, ngăn chặn hải quân Mỹ và Trung Quốc.
Ngoài ra, một số chiến hạm của Hạm đội Thái Bình Dương cũng được triển khai trong trạng thái trực sẵn sàng chiến đấu tại các khu vực của biển Hoa Đông, sẵn sàng tiếp viện, đồng thời chuẩn bị cho những tình huống xấu nhất có thể xảy ra.
Cụm chiến hạm Xô viết có mặt trên Vịnh Bắc bộ đến tận tháng 4-1979. Những hoạt động sẵn sàng chiến đấu của Hạm đội Thái Bình dương đã gây một sức ép nặng nề, buộc các chiến hạm của Hạm đội Nam Hải không dám tham gia cuộc tấn công, mặc dù có tới gần 300 tàu chiến các loại.
Song song với đối phó với tàu chiến Trung Quốc, các chiến hạm Liên Xô đã triển khai đối phó với các tàu chiến Mỹ. Tính đến ngày 25-2-1979, một số lượng lớn các tàu Mỹ đã neo đậu thành chuỗi ngoài khơi bờ biển Việt Nam, mà theo Washington tuyên bố lúc bấy giờ là để “theo dõi tình hình chiến sự”.
Để ngăn chặn các chiến hạm Mỹ tiếp cận khu vực tác chiến, các tàu ngầm diesel-điện của hạm đội Thái Bình Dương-Nga đã lập một phòng tuyến đối đầu. Một số các tàu ngầm cơ động ở độ sâu tác chiến, một số tàu ngầm đã nổi hẳn lên mặt nước, để chiến hạm của hải quân Mỹ trông thấy.
Người Mỹ đã không dám vượt qua tuyến ngăn chặn của tàu ngầm Liên Xô. Vào 06-3 - một ngày sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân, Cụm AUG do tàu sân bay Constellation dẫn đầu đã rời Biển Đông, hành trình về Vịnh Aden, nơi đang xảy ra xung đột dữ dội giữa miền Bắc và Nam Yemen.
Tàu vận tải đổ bộ của Liên Xô vận chuyển trang thiết bị quân sự lên quân cảng Cam Ranh

Xây dựng hành lang vận tải trên biển sang Việt Nam
Ngoài ra, hải quân Liên Xô đã lập một hàng lang vận tải khẩn cấp từ nước mình sang Việt Nam. Hải quân Liên Xô đã trưng dụng 3 quân cảng Vladivostok, Nakhodka, Odessa để tập trung hàng hóa, khẩn trương vận tải hàng viện trợ quân sự bằng đường biển đến Đông Nam Á.
Một số lượng lớn các tàu vận tải của hải quân Liên Xô đảm bảo việc chuyển hàng hóa thông thường và vũ khí, trang bị cho Việt Nam. Chỉ tính riêng ở Hải Phòng lúc đó đã có 20 tàu cả dân sự lẫn quân sự chở hàng và chở dầu của Liên Xô vào cảng bốc dỡ.
Thậm chí là Liên Xô còn điều động một đội bốc xếp chuyên nghiệp lớn từ các Cảng Liên Xô Vladivostok, Nakhodka và Vanina Korsakov, do ông G.I.Pikusa, Trưởng đội bốc xếp của cảng Nakhodka làm trưởng nhóm, sang Việt Nam làm nhiệm vụ bốc dỡ ở cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn.
Đội được cấp tốc điều chuyển đến đến Việt Nam trên tàu vận tải “Olga Androvskaya”. Trong thời gian thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả ở Việt Nam, đội bốc dỡ này đã triển khai xuống hàng trên 26 tàu tải trọng lớn với tổng cộng hơn 100 nghìn tấn hàng hóa.
Vì lòng dũng cảm và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, được thể hiện xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp đỡ Việt Nam chống quân Trung Quốc xâm lược, 36 quân nhân thuộc hạm đội Thái Bình Dương đã được trao những phần thưởng cấp Nhà nước của Liên bang Xô viết.
Như chúng ta đã thấy, Liên Xô đã làm tất cả những điều cần thiết để ủng hộ tinh thần và vật chất để giúp đỡ Việt Nam chống lại sức tấn công dữ dội của quân đội Trung Quốc. Sự giúp đỡ của nước bạn là vô cùng quý báu, giúp quân dân Việt Nam đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược trên quy mô lớn.
Tuy nhiên, một thắc mắc rất lớn vào thời điểm đó và cả hiện nay là tại sao Liên Xô không tung quân giúp đỡ Việt Nam và vì sao Trung Quốc không sử dụng đến các lực lượng không quân và tên lửa. Điều này chúng ta sẽ tìm hiểu trong các kỳ sau.
Xem thêm
>> Cuộc chiến tranh 17-2-1979: Ngưỡng can thiệp quân sự của Liên Xô
Nguồn Baodatviet

Thứ Tư, 2 tháng 3, 2016

Cuộc chiến tranh 17-2-1979

1. Chiến thuật 'Biển người' lấp biên giới

Để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược tháng 2-1979, quân đội Trung Quốc đã huy động 620.000 quân, tấn công 6 tỉnh khu vực biên giới phía Bắc Việt Nam.

 Trung Quốc khởi động chiến tranh xâm lược Việt Nam

Vào ngày 7-12-1978, Quân ủy Trung ương Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp, ra quyết định phát động một cuộc chiến tranh xâm lược hạn chế trên tuyến biên giới phía bắc Việt Nam với tuyên bố công khai trước thế giới là “Chiến tranh phản kích tự vệ” trước “hành động xâm lược” của Việt Nam.
Chỉ thị của Quân ủy Trung ương Trung Quốc nêu rõ, cuộc chiến tranh được hạn chế nghiêm ngặt trong vòng bán kính 50km từ đường biên giới và kéo dài trong 2 tuần, các đơn vị được ấn định ở phạm vi trên phải chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu từ ngày 10 tháng 1 năm 1979.
Ý đồ tác chiến được Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc (QGPNDTQ) lựa chọn là “triển khai 2 mũi tấn công lớn từ 2 hướng, tập trung quân số áp đảo toàn diện để bao vây quân địch từ hai bên sườn, nhằm tiêu diệt từng bộ phận quân địch bằng những trận đánh hủy diệt lớn, theo phương thức đánh nhanh rút gọn".
Cuộc họp chỉ định, lực lượng tấn công chính sẽ lấy từ hai Đại quân khu Quảng Châu (nòng cốt là Quân khu tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây) và Đại quân khu Thành Đô (nòng cốt là Quân khu tỉnh Vân Nam và Tứ Xuyên). Ngoài ra, Trung Quốc cũng điều động thêm một lực lượng lớn từ các Đại quân khu khác.
Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Trung Quốc được tuyên bố là “Chiến tranh phản kích tự vệ” tiến hành trong 3 giai đoạn.

Cuoc chien tranh 17-2-1979: Chien thuat 'Bien nguoi' lap bien gioi
Một ổ hỏa lực của quân đội Trung Quốc trong chiến tranh xâm lược 1979
Giai đoạn đầu từ 17 đến 25 tháng 2. Trong thời gian này, quân đội Trung Quốc dự tính sẽ phá vỡ tuyến phòng ngự đầu tiên của Việt Nam và đánh chiếm các thị xã Cao Bằng và Lào Cai, các thị trấn biên giới quan trọng là Cam Đường và Đồng Đăng, cửa ngõ ra vào Lạng Sơn.
Giai đoạn hai từ 26 tháng 2 đến 5 tháng 3, lực lượng Trung Quốc ở Quảng Tây sẽ tập trung tấn công vào Lạng Sơn và các vùng phụ cận phía tây, trong khi các cánh quân vu hồi ở Vân Nam sẽ giao chiến với sư đoàn quân Việt Nam ở vùng Tây Bắc Sa Pa, và Phong Thổ.
Trong giai đoạn cuối từ 6-3 đến 16-3, quân Trung Quốc sẽ nỗ lực truy quét để tiêu diệt nốt các lực lượng còn sót lại trong quá trình phá hủy hệ thống quân sự tại khu vực biên giới với Trung Quốc, trước khi hoàn thành việc rút quân vào ngày 16 tháng 3.
Trước đó, trong cuộc họp vào lễ Giáng sinh năm 1978, Đặng Tiểu Bình - khi đó là một trong năm Phó chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc, kiêm Tổng tham mưu trưởng đã quyết định không thành lập Bộ chỉ huy chung mà hai cánh quân sẽ tiến hành chiến đấu độc lập, không có phối hợp hoặc hiệp đồng.
Đặng Tiểu Bình cũng chỉ định Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou) - Tư lệnh Đại Quân khu Quảng Châu làm chỉ huy cánh quân Quảng Tây và Dương Đắc Chí (Yang Dezhi - Tư lệnh quân khu tỉnh Vũ Hán) chỉ huy cánh quân Vân Nam, không dùng Vương Tất Thành (Wang Bicheng)- Tư lệnh quân khu tỉnh Vân Nam.


Cuoc chien tranh 17-2-1979: Chien thuat 'Bien nguoi' lap bien gioi
Xe tăng Trung Quốc bị bắn cháy ở Cao Bằng tháng 2-1979
Theo tinh thần chỉ đạo và chiến thuật đó, 2 cánh chủ lực của Trung Quốc đã xây dựng những kế hoạch tác chiến riêng của họ, trong đó tập trung nhấn mạnh đến việc tiêu diệt các sư đoàn quân chính quy của Việt Nam dọc biên giới Trung-Việt.
Theo kinh nghiệm chiến đấu của mình và dựa trên các bài bản chiến thuật của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Hứa Thế Hữu đã đưa ra tư tưởng chỉ đạo cho cuộc chiến tranh là “ngưu đao sát kê” tức là “dùng dao mổ trâu để cắt tiết gà”, với nguyên tắc tác chiến gồm ba điểm:
Một là: Tập trung tấn công vào vị trí quan trọng nhưng phòng thủ sơ hở của quân địch.
Hai là: Sử dụng lực lượng và hỏa lực áp đảo (tiền pháo hậu xung) để đập tan hàng phòng ngự của địch tại những những cứ điểm then chốt.
Ba là: Các đơn vị xung kích phải dốc sức nhanh chóng thọc sâu và tấn công theo tất cả các con đường dẫn đến sào huyệt kẻ thù.
Theo cách này họ Hứa tin rằng, dưới sự chỉ huy của của ông ta, quân Trung Quốc có thể xé nát hệ thống phòng thủ biên giới của Việt Nam thành từng mảnh, đập tan mọi sự kháng cự, thọc sâu, bao vây, chia cắt và sau đó tiêu diệt hết chủ lực Việt Nam.
Ngay từ đầu tháng 10 năm 1978, Trung Quốc đã tung quân báo, thám báo, trinh sát và cả một số điệp viên tình báo của Hoa Nam tình báo Cục sang lãnh thổ Việt Nam do thám và thực hiện nhiều cuộc tấn công thăm dò vào các vị trí phòng thủ của chúng ta ở các tỉnh biên giới.
Mục đích chính của chúng là thu thập thông tin về địa hình, khả năng phòng thủ, tinh thần chiến đấu của lực lượng biên phòng Việt Nam, đồng thời tạo tâm lý “bão hòa” các cuộc tiến công nhỏ lẻ của Trung Quốc, nhằm che giấu ý đồ mở cuộc chiến tranh xâm lược lớn của chúng.
Những cuộc tấn công nhỏ, lẻ này tăng dần về quy mô và tần số cũng đồng nghĩa với việc lực lượng Trung Quốc tập trung tại biên giới ngày càng đông. Cùng trong thời gian đó, Trung Quốc cắt đứt tuyến đường sắt Hữu Nghị nối liền hai nước vào ngày 22 tháng 12 năm 1978.

Huy động “Biển người” tấn công sang Việt Nam
Đến giữa tháng 1 năm 1979, gần 20 sư đoàn chính quy Trung Quốc, với trên dưới 25 vạn quân chủ lực, hàng trăm xe tăng, xe bọc thép, hàng vạn khẩu pháo, cối và các loại vũ khí khác đã tập trung gần biên giới với Việt Nam.
Hơn 700 máy bay chiến đấu và máy bay ném bom (tức 1/5 lực lượng không quân Trung Quốc), đã được đưa đến các sân bay giáp biên giới, phối hợp với các lực lượng lục quân, chuẩn bị một chiến dịch tấn công tổng lực, đại quy mô, xâm lược trực diện, xâm lược toàn diện.


 
Xe tăng Trung Quốc qua cầu vượt sông tiến đánh Việt Nam
Đến cuối tháng 1-1979, guồng máy khổng lồ hoạt động cho một cuộc xâm lược quy mô, núp dưới cái tên khêu gợi sự thương cảm của cộng đồng quốc tế là “Chiến tranh phản kích tự vệ” đã được chuẩn bị xong và sẵn sàng gieo tội ác xuống đất nước láng giềng nhỏ bé và thân thiện.
Vào thời điểm đó, về mặt tổ chức hành chính, Trung Quốc biên chế tổ chức thành các Đại quân khu (hiện nay là các Quân khu), dưới là các Quân khu tỉnh và thấp hơn cả là các Phân quân khu.
Về mặt tổ chức lực lượng tác chiến, các Đại quân khu thường được biên chế từ 3 Tập đoàn quân trở lên. Vào thời điểm đó, mỗi tập đoàn quân Trung Quốc có biên chế và vũ khí, trang bị lớn hơn 1 quân đoàn chủ lực của ta với ít nhất là 3 sư đoàn (f) bộ binh, trong đó có 2 sư Bộ binh cơ giới (fBBCG).
Để thực hiện kế hoạch tác chiến theo kiểu “Biển người”, Trung Quốc đã chuẩn bị kỹ lưỡng, huy động một lực lượng khổng lồ gồm 10 Tập đoàn quân chủ lực (1 TĐQ làm nhiệm vụ dự bị) và một số sư đoàn bộ binh độc lập (tổng cộng 32 sư đoàn bộ binh), thuộc 5 Đại quân khu.
Tổng số quân được huy động vào khoảng 620.000 quân, trong đó có hơn 300.000 quân chủ lực, được coi là thiện chiến nhất khi đó, núp dưới danh nghĩa bộ đội địa phương. Ngoài ra, còn khoảng hơn 300.000 dân binh, thuộc lực lượng quân dự bị.
Theo một số nguồn tin của Trung Quốc, lực lượng tác chiến hỏa lực gồm có 6 trung đoàn xe tăng; 4 sư đoàn và nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không độc lập, với tổng số gần 800 xe tăng-thiết giáp (550 xe tăng), 480 khẩu pháo, 1.260 súng cối và dàn hỏa tiễn.
Ngoài ra, hơn 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 1.700 máy bay sẵn sàng yểm trợ phía sau (tuy nhiên, do những định hướng chiến lược của cuộc chiến tranh, quân đội Trung Quốc không huy động lực lượng này tham chiến, lí do tại sao chúng ta sẽ tìm hiểu trong những kỳ sau).
Ngoài lực lượng quân chính quy, Trung Quốc còn huy động hàng chục vạn dân công ở các tỉnh biên giới để tải đồ tiếp tế, phục vụ, tải thương, hỗ trợ quân chính quy phục vụ cho chiến dịch. Theo số liệu công khai, chỉ riêng tại Quảng Tây đã có đến 215.000 dân công được huy động.
5h sáng ngày 17-2-1979, tiếng súng đã vang lên ở biên giới phía Bắc Việt Nam, báo hiệu cuộc cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc chính thức bắt đầu.
Hơn 60 vạn quân được sự yểm trợ của gần 800 xe tăng, xe bọc thép, trọng pháo đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam (từ trái sang phải theo tuyến biên giới là Lai Châu, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh), chạy từ điểm tây bắc là Pa Nậm Cúm (Lai Châu) đến điểm đông bắc ở Pò Hèn (Quảng Ninh).


 
Các mũi tấn công chính và phụ trên toàn tuyến biên giới của quân đội Trung Quốc
Theo Nhân dân Nhật báo Trung Quốc, cánh quân Quảng Tây (phía đông) do Hứa Thế Hữu chỉ huy, bao gồm các Tập đoàn quân (TĐQ) 41, 42, 43, 54, 55 và 50 (thiếu sư 149, phối thuộc cho cánh quân Vân Nam), tiến công vào đông bắc Việt Nam với trọng điểm là Lạng Sơn và Cao Bằng.
Trong đó, hướng Lạng Sơn do Tập đoàn quân 43, 54, 55 phụ trách, còn hướng Cao Bằng do Tập đoàn quân 41, 42, 50 đảm nhận nhiệm vụ tấn công.
Cánh quân Vân Nam (phía tây) do Dương Đắc Chí - tư lệnh Đại Quân khu Thành Đô chỉ huy, bao gồm các Tập đoàn quân 11, 13, 14 và sư 149/quân đoàn 50 đảm nhiệm tấn công vào hướng tây bắc Việt Nam, với trọng điểm là Lào Cai (trước là Hoàng Liên Sơn, nay tách ra thành Lào Cai và Yên Bái).
Hướng Hoàng Liên Sơn do Tập đoàn quân 13, 14 triển khai tấn công; Tập đoàn quân 11 tiến quân theo hướng Lai Châu.
Ngoài ra, ở các nhánh tấn công phụ trên biên giới khu vực phía bắc và đông bắc, thuộc địa bàn 2 tỉnh Quảng Ninh và Hà Giang (trước đây là Hà Tuyên, nay tách thành Hà Giang, Tuyên Quang) mỗi nơi cũng có ít nhất từ 2-3 sư đoàn, sau đó tăng viện thêm.
Các chiến dịch quân sự đã được thực hiện bên trong lãnh thổ Việt Nam dọc theo biên giới kéo dài đến 900 km từ đông sang tây. Trong 30 ngày, quân Trung Quốc đã tiến hành những trận đánh đẫm máu nhất, và gặp phải những thương vong lớn nhất kể từ chiến tranh Triều Tiên.

2. Chiến lược 'biển người Trung Quốc' vỡ vụn

5h sáng ngày 17/2/1979, Trung Quốc chính thức mở cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

So sánh cán cân lực lượng giữa Trung Quốc và Việt Nam
Các chiến dịch quân sự đã được thực hiện bên trong lãnh thổ Việt Nam dọc theo biên giới kéo dài đến 900 km, từ điểm tây bắc là Pa Nậm Cúm (Lai Châu) đến điểm đông bắc ở Pò Hèn (Quảng Ninh).
Hơn 60 vạn quân được sự yểm trợ của gần 800 xe tăng, xe bọc thép, trọng pháo đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam (từ trái sang phải theo tuyến biên giới là Lai Châu, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh).


Cuoc chien 17/2/1979: Chien luoc 'bien nguoi Trung Quoc' vo vun
Dân binh Trung Quốc trong các đội tải thương. Ước tính có khoảng 4.000 lính Trung Quốc tử trận chỉ trong 2 ngày đầu của cuộc chiến
Theo Nhân dân Nhật báo Trung Quốc, cánh quân Quảng Tây (phía đông) do Hứa Thế Hữu chỉ huy, bao gồm các Tập đoàn quân (TĐQ) 41, 42, 43, 54, 55 và 50 (thiếu sư 149, phối thuộc cho cánh quân Vân Nam), tiến công vào đông bắc Việt Nam với trọng điểm là Lạng Sơn và Cao Bằng.

Trong đó, hướng Lạng Sơn do Tập đoàn quân 43, 54, 55 phụ trách, còn hướng Cao Bằng do Tập đoàn quân 41, 42, 50 đảm nhận nhiệm vụ tấn công.

Cánh quân Vân Nam (phía tây) do Dương Đắc Chí - tư lệnh Đại Quân khu Thành Đô chỉ huy, bao gồm các Tập đoàn quân 11, 13, 14 và sư 149/quân đoàn 50 đảm nhiệm tấn công vào hướng tây bắc Việt Nam, với trọng điểm là Lào Cai (trước thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, nay tách ra thành Lào Cai và Yên Bái).

Hướng Hoàng Liên Sơn do quân đoàn 13, 14 phụ trách tấn công; hướng Lai Châu có quân đoàn 11; hướng Quảng Ninh, Hà Giang (trước thuộc tỉnh Hà Tuyên, nay tách thành Hà Giang, Tuyên Quang) mỗi nơi cũng có từ 1-2 sư đoàn.


Cuoc chien 17/2/1979: Chien luoc 'bien nguoi Trung Quoc' vo vun
Mặt trận Cao Bằng
Vào thời điểm đó, 3 trong số 4 Quân đoàn chính quy đang tập trung ở khu vực phía Nam, nên phòng thủ ở biên giới với Trung Quốc chỉ có một số sư đoàn chủ lực quân khu (phần lớn là tân binh) của Quân khu I và II cùng các đơn vị bộ đội biên phòng, bộ đội địa phương tỉnh, huyện; công an vũ trang (biên phòng), du kích xã và dân quân - tự vệ.
Lực lượng tinh nhuệ nhất của phía Việt Nam đứng chân trên khu vực biên giới Việt-Trung là Sư đoàn 3 (đóng ở Lạng Sơn) và sư đoàn 316A (đóng tại Sa Pa). Ngoài ra, còn có các sư đoàn 346 ở Cao Bằng, 325B ở Quảng Ninh, 345 ở Lào Cai, 326 ở Phong Thổ, Lai Châu.
Lực lượng độc lập của ta gồm các trung đoàn 141, 147, 148, 197, trung đoàn pháo binh 68, các trung đoàn quân địa phương 95, 121, 192, 254 và 741.
Đến ngày 18 và 19-2, chúng ta lần lượt bổ sung hai sư đoàn 327 của Quân khu III (gồm Trung đoàn bộ binh 42, 75, 540 và Trung đoàn pháo binh 120) từ Quảng Ninh lên tiếp viện Quân khu I và sư đoàn 337 của Quân khu IV, (gồm Trung đoàn bộ binh 4, 52, 92 và Trung đoàn pháo binh 108) hành quân bằng cả tàu hỏa và xe vận tải từ Nghệ An ra bắc, lên tiếp viện thẳng cho mặt trận chính ở Lạng Sơn.
Để đối phó với lực lượng tấn công tới 60 vạn quân của Trung Quốc, lúc đó lực lượng phòng thủ biên giới của chúng ta chỉ có tổng cộng khoảng 7 vạn quân.
Quân đoàn chủ lực duy nhất ở ngoài bắc là Quân đoàn 1 triển khai lực lượng xây dựng một phòng tuyến bảo vệ thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng, chuẩn bị cho tình huống xấu nhất là Trung Quốc đột phá qua tuyến phòng thủ biên giới, tiến sâu xuống vùng châu thổ sông Hồng.
Đến giai đoạn 2 của cuộc chiến (theo tuyên bố của Trung Quốc), Việt Nam đã quyết định tung lực lượng chủ lực tham chiến.
Ngày 27-2, Quân đoàn 2 chủ lực của Bộ quốc phòng được lệnh cơ động lên mặt trận tăng viện để quét sạch quân Trung Quốc. Các trung đoàn máy bay vận tải, trực thăng vận tải Việt Nam và Liên Xô đã dùng máy bay vận tải bốc bộ binh và vũ khí, trang bị của Quân đoàn từ chiến trường biên giới Tây Nam về miền bắc.
Tuy nhiên, việc bốc một số lượng lớn bộ binh và vũ khí trang bị với khoảng cách xa như thế là điều không hề đơn giản, nên mãi đến cuối cuộc chiến lực lượng chủ lực của quân đoàn này mới kịp triển khai lên biên giới. Lúc đó, quân đội Trung Quốc đã rút chạy sau khi ta tung một phần lực lượng của Quân đoàn 1 lên biên giới.
Trước tình hình chiến sự ngày càng trở nên quyết liệt ở khu vực thị xã Lạng Sơn và phần lớn lực lượng chủ lực của Quân đoàn 2 chưa về kịp, vào ngày 3-3, Bộ Quốc phòng đã quyết định sử dụng đến các đơn vị chủ lực cơ động chiến lược của Quân đoàn 1(tức Binh đoàn Quyết Thắng).
Quân đoàn 1 lập tức điều Sư đoàn bộ binh 320B (sau này đổi thành 390 - đoàn Đồng Bằng, gồm Trung đoàn bộ binh 27, 48, 64 và Trung đoàn pháo binh 54), được tăng cường Trung đoàn bộ binh 209 (đoàn Sông Lô) - thuộc Sư đoàn bộ binh 312 (đoàn Chiến Thắng) và tiểu đoàn pháo tầm xa 130mm của Lữ đoàn pháo binh 45 (đoàn Tất Thắng) cấp tốc hành quân lên Lạng Sơn.


Mặt trận Lạng Sơn
Đến ngày 5-3, lực lượng của Quân đoàn 1 bắt đầu triển khai chiến đấu, nhưng chưa kịp tham chiến thì Trung Quốc tuyên bố rút quân, ngay sau khi Lệnh tổng động viên toàn quốc để quét sạch bè lũ xâm lăng của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng được công bố vào ngày hôm đó.
Tóm lược diễn biến cuộc chiến tranh xâm lược năm 1979 của Trung Quốc
Do khuôn khổ bài viết có hạn, chúng ta sẽ không đi sâu vào các chi tiết của những trận đánh và chỉ điểm qua tình hình chính trong các giai đoạn. Nếu có điều kiện, chúng tôi sẽ trình bày kỹ lưỡng về diễn biến chiến sự cụ thể trong những loạt bài khác.
Giai đoạn 1 (từ ngày 17 đến 27-2)
5 giờ sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, pháo binh Trung Quốc ồ ạt tấn công vào nội địa của ta, tiếp theo là xe tăng và khoảng 120.000 quân Trung Quốc rầm rộ tràn qua, tiến đánh Việt Nam trên toàn tuyến biên giới, từ tỉnh tây bắc là Lai Châu đến tỉnh đông bắc là Quảng Ninh.
Cánh phía đông (hướng Quảng Tây) có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Nam Ninh và mục tiêu chính là Lạng Sơn, Cao Bằng với 2 hướng tiến đánh chính.
Hướng thứ nhất do Tập đoàn quân 42 (thuộc Đại quân khu Quảng Châu) dẫn đầu từ Long Châu đánh vào Đồng Đăng, nhằm làm bàn đạp đánh Lạng Sơn, hướng thứ hai do Tập đoàn quân 41 dẫn đầu, từ Tĩnh Tây và Long Châu đánh vào Cao Bằng và Đông Khê.
Ngoài ra, Tập đoàn quân 55 cũng tổ chức một hướng tiến công từ Phòng Thành - Quảng Tây đánh vào Móng Cái - Quảng Ninh của ta.
Cánh phía tây (hướng Vân Nam) có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Mông Tự-Vân Nam, với 3 mũi tiến công chính.
Mũi thứ nhất do lực lượng của các Tập đoàn quân 11 và 13 (Đại quân khu Thành Đô), đánh vào thị xã Lào Cai. Hướng thứ hai từ Văn Sơn đánh vào Hà Giang. Hướng thứ 3 do sư đoàn 42 của Tập đoàn quân 14 (Đại quân khu Thành Đô) dẫn đầu đánh từ Kim Bình vào Lai Châu.


Tổng cộng quân Trung Quốc xâm nhập Việt Nam trên 26 điểm, các khu vực dân cư Việt Nam chịu thiệt hại nặng nhất từ đợt tấn công đầu tiên này là thị xã Lào Cai, huyện Mường Khương (Lào Cai), Cao Bằng, Lạng Sơn và Móng Cái (khi đó là huyện lỵ của huyện Hải Ninh, tỉnh Quảng Ninh).
Trong giai đoạn từ ngày 17 đến ngày 28-2, quân Trung Quốc đánh chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng và một số thị trấn. Với tư tưởng quán triệt trước là phải phá hoại nền kinh tế Việt Nam, quân Trung Quốc đã phá hủy triệt để các cơ sở vật chất, kinh tế ở những địa phương này.
Tuy nhiên, do vấp phải tinh thần chiến đấu kiên cường và chiến thuật phòng ngự hiệu quả của bộ đội địa phương và dân quân du kích Việt Nam, cũng như áp dụng chiến thuật lạc hậu, nên quân Trung Quốc tiến rất chậm và bị thương vong rất nặng nề.
Giai đoạn 2 (27/2-5/3):
Giai đoạn 2 bắt đầu từ ngày 27-2, là giai đoạn bộc lộ dã tâm xâm lược của Trung Quốc khi chúng liên tiếp tăng quân đánh sang Việt Nam. Đến thời điểm này cộng đồng quốc tế cũng đã nhận ra sự giả dối và tráo trở của Trung Quốc đằng sau cái gọi là “Chiến tranh phản kích tự vệ”
Áp dụng chính sách hai mặt, Trung Quốc tiếp tục điều quân tăng viện từ Trung Quốc sang Việt Nam trong khi trước đó Đặng Tiểu Bình hứa hẹn "có thể sẽ rút quân sau 10 ngày”. Điều này cho thấy những lời hứa hẹn "cuộc chiến giới hạn" chỉ là điều dối trá trắng trợn.
Chiến sự tập trung tại khu vực Lạng Sơn (mũi Quảng Tây của Trung Quốc), tuy giao tranh tại Lào Cai, Cao Bằng, và Móng Cái vẫn tiếp diễn.
Trung Quốc điều tới hướng thị xã Lạng Sơn thêm 2 sư đoàn từ Đồng Đăng và Lộc Bình (phía Đông Nam Lạng Sơn). Sau đó, đến ngày 2-3 sử dụng thêm sư đoàn 162 dự bị chiến dịch của Tập đoàn quân 54 và dùng 6 sư đoàn tấn công đồng loạt trên nhiều hướng vào Lạng Sơn.
Ở hướng này, sư đoàn 3 và sư đoàn 337 (lực lượng chi viện của Quân khu 4, vừa hành quân từ Nghệ An ra) đã anh dũng đánh bật cuộc tiến công của 6 sư đoàn và nhiều trung đoàn của địch. Với lực lực lượng bình quân hơn 1 sư đoàn đánh với 1 trung đoàn ta, mãi đến ngày 4-3 Trung Quốc mới chiếm được thị xã Lạng Sơn.


Mặt trận Lào Cai
Đến giai đoạn này, Việt Nam cũng quyết định tung lực lượng chủ lực để ra đòn quyết định, đánh bật quân Trung Quốc về bên kia biên giới. Việt Nam đã điều các sư đoàn chủ lực có xe tăng, pháo binh hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản công giải phóng các khu vực bị chiếm đóng.
Quân đoàn 14 (vừa được thành lập ngày 25-2), bao gồm các sư đoàn 3, 327, 338, 337 hầu như còn nguyên vẹn, bắt đầu tái triển khai quân bao vây đánh chiếm lại thị xã Lạng Sơn.
Lúc này, sư 320B của Quân đoàn 1 (gồm 3 trung đoàn bộ binh và 1 trung đoàn pháo binh), được tăng cường thêm 1 trung đoàn bộ binh 209 và 1 tiểu đoàn pháo tầm xa 130mm đã từ đồng bằng lên tăng viện cho Lạng Sơn và triển khai đội hình chiến đấu vào ngày 4-3.
Ngoài ra, lực lượng chủ lực của Quân đoàn 2 được máy bay vận tải bốc thẳng từ mặt trận biên giới Tây Nam về đã bắt đầu tập kết sau lưng Quân đoàn 14.
Sau khi thấy một phần chủ lực của Việt Nam đã lên biên giới và các sư chủ lực khác cũng đang ầm ầm kéo quân ra Bắc, cộng với kết quả thương vong, tổn thất quá lớn, ngày 5-3-1979, Đặng Tiểu Bình tuyên bố đã "hoàn thành mục tiêu chiến tranh" và bắt đầu rút lui trong "chiến thắng".
Giai đoạn 3 (từ ngày 5 đến 18-3):


Quân Trung Quốc đang di chuyển tại Cao Bằng. Đi đầu là xe bọc thép Type 63
Có một số tài liệu cho rằng cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc chia làm 2 giai đoạn, kết thúc khi tuyên bố rút quân về, nhưng trên thực tế, đến ngày 18-3, những lực lượng cuối cùng mới rút khỏi Việt Nam và trong giai đoạn này vẫn xảy ra một số trận đánh, nên chúng ta có thể phân thành 3 giai đoạn.
Ngày 5 tháng 3 năm 1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn quốc để “bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của bọn bành trướng và bá quyền Trung Quốc”. Trong khi đó, lực lượng chủ lực của Quân đoàn 1 và 2 cũng đã lên đến biên giới.
Trong bối cảnh đó, Đặng Tiểu Bình vội vã tuyên bố đã hoàn thành được mục đích “dạy cho Việt Nam một bài học” và tuyên bố rút quân. Việt Nam thể hiện tinh thần nhân đạo đúng với truyền thống lịch sử dân tộc hàng ngàn năm qua, tuyên bố cho phép quân xâm lược Trung Quốc được rút lui an toàn.
Tuy nhiên, do trên đường rút chạy, quân Trung Quốc vẫn không ngừng đốt phá, giết người và phá hoại các công trình của Việt Nam nên chủ lực ta đã tiến hành một số trận truy kích, ví dụ như trận Chi Mã, để bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, đồng thời răn đe quân xâm lược giở trò lật lọng.
Ngày 18-3-1979, tàn quân Trung Quốc rời khỏi nước ta, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của bè lũ bành trướng Bắc Kinh.
Với lực lượng chỉ bằng gần 1/10 của kẻ thù và phần lớn là dân quân du kích nhưng Việt Nam đã gây tổn thương nặng cho quân địch cả về lực lượng và trang bị, đẩy lùi quân giặc ra khỏi biên giới, bảo vệ thắng lợi miền Bắc, viết thêm một trang sử hào hùng trong lịch sử chống ngoại xâm phương Bắc của dân tộc.

3. Khả năng điều động binh lực của Việt Nam

Để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược 17-2-1979, Trung Quốc đã tập trung quân sẵn sàng từ giữa tháng 1-1979, còn về phía Việt Nam thì sao?

Trung Quốc nổ súng tấn công Việt Nam
5h sáng ngày 17-2-1979, cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Trung Quốc chính thức bắt đầu. Quân đội Trung Quốc đã tấn công vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam, dọc theo biên giới kéo dài đến 900 km, từ điểm tây bắc là Pa Nậm Cúm (Lai Châu) đến điểm đông bắc ở Pò Hèn (Quảng Ninh).
Hơn 60 vạn quân được sự yểm trợ của gần 800 xe tăng, xe bọc thép và hàng ngàn khẩu trọng pháo đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam (từ tây bắc sang đông bắc theo tuyến biên giới là Lai Châu, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh).
Theo Nhân dân Nhật báo Trung Quốc, cánh quân Quảng Tây (phía đông) do Hứa Thế Hữu chỉ huy, bao gồm các Tập đoàn quân (TĐQ) 41, 42, 43, 54, 55 và 50 (thiếu sư 149, phối thuộc cho cánh quân Vân Nam), tiến công vào đông bắc Việt Nam với trọng điểm là Lạng Sơn và Cao Bằng.
Trong đó, hướng Lạng Sơn do Tập đoàn quân 43, 54, 55 phụ trách, còn hướng Cao Bằng do Tập đoàn quân 41, 42, 50 đảm nhận nhiệm vụ tấn công.
Cánh quân Vân Nam (phía tây) do Dương Đắc Chí - tư lệnh Đại Quân khu Thành Đô chỉ huy, bao gồm các Tập đoàn quân 11, 13, 14 và sư 149/quân đoàn 50 đảm nhiệm tấn công vào hướng tây bắc Việt Nam, với trọng điểm là Lào Cai (trước thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, nay tách ra thành Lào Cai và Yên Bái).
Hướng Hoàng Liên Sơn do quân đoàn 13, 14 phụ trách tấn công; hướng Lai Châu có quân đoàn 11; hướng Quảng Ninh, Hà Giang (trước thuộc tỉnh Hà Tuyên, nay tách thành Hà Giang, Tuyên Quang) mỗi nơi cũng có từ 1-2 sư đoàn.
Cuộc chiến nổ ra giữa lúc phần lớn các quân đoàn dự bị chiến lược của Việt Nam đang ở măt trận biên giới Tây Nam. Khi đó, lực lượng thường trực của các Quân khu I, II và lực lượng tăng cường từ các Quân khu khác như sau:


Cuoc chien tranh 17-2-1979:Kha nang dieu dong binh luc cua Viet Nam
Để tấn công Việt Nam, quân Trung Quốc đã chuẩn bị từ nhiều tháng trước
Lực lượng không quân, hải quân
Sau khi Trung Quốc nổ súng tiến công Việt Nam, Bộ Quốc phòng nước ta đã ra quyết định điều một phần lực lượng Sư đoàn không quân 372 (đoàn Hải Vân) ra Bắc làm nhiệm vụ.
Từ ngày 18-2 đến 3-3-1979, các phi đội máy bay của sư đoàn này, thuộc Trung đoàn không quân 917 (đoàn Đồng Tháp), 935 (đoàn Đồng Nai) và 937 (đoàn Hậu Giang) đã lần lượt bay ra Bắc, nhận nhiệm vụ thường trực sẵn sàng chiến đấu.
Số lượng máy bay cụ thể được điều động bao gồm 10 trực thăng UH-1, 3 máy bay trinh sát U-17, 10 máy bay cường kích A-37, 10 máy bay tiêm kích bom F-5. Các máy bay này lần lượt được triển khai ở các căn cứ không quân Hòa Lạc, Kép, Bạch Mai và Nội Bài.
Ngoài ra, các phi đội tiêm kích MiG-17, MiG-21 của Sư đoàn không quân 371 (đoàn Thăng Long) làm nhiệm vụ bảo vệ không phận miền Bắc đã được đặt trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao độ ngay từ ngày đầu Trung Quốc mở cuộc chiến tranh xâm lược.
Ở phía Nam, trực thăng và máy bay vận tải của Trung đoàn không quân 916 (đoàn Ba Vì), Đoàn 918 và Đoàn 919 Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam cũng phối hợp với không quân Liên Xô, khẩn trương tập kết và vận chuyển Quân đoàn 2 từ mặt trận biên giới Tây Nam lên biên giới phía Bắc.
Ngoài ra Đoàn bay 919 còn sử dụng máy bay vận tải IL-14 (có tiêm kích MiG-21 yểm hộ) bay nhiều chuyến thả dù tiếp tế cho lực lượng vũ trang ta ở khu vực xã Canh Tân-Minh Khai, Thạch An (Cao Bằng).
Tuy Việt Nam đã triển khai lực lượng máy bay tiêm, cường kích khá đông đảo, lại vừa trải qua thực tế cuộc kháng chiến chống Mỹ nên trình độ tác chiến của các phi công rất điêu luyện, nhưng chúng ta không sử dụng đến. Chúng ta sẽ tìm hiểu trong những kỳ sau.
Bên cạnh đó Việt Nam cũng triển khai toàn bộ lực lượng tàu thuyền bảo vệ chủ quyền lãnh hải trên biển Đông. Tuy nhiên, thời điểm đó, Liên Xô cũng đã phái tới gần 30 chiến hạm rất mạnh đến lập thành hàng rào trên biển, nhằm tạo sự răn đe với lực lượng hải quân Trung Quốc và cả hải quân Mỹ.
Về triển khai lực lượng hải quân Liên Xô trên biển Đông chúng ta sẽ cùng tìm hiểu trong bài viết về những đóng góp của Liên Xô trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Trung Quốc tháng 2-1979.
Lực lượng phòng thủ tại chỗ của các quân khu
Vào thời điểm đó, 3 trong số 4 Quân đoàn chính quy đang tập trung ở khu vực phía Nam, nên phòng thủ ở biên giới với Trung Quốc chỉ có một số sư đoàn chủ lực quân khu (phần lớn là tân binh) của Quân khu I và II cùng các đơn vị bộ đội biên phòng, bộ đội địa phương tỉnh, huyện; công an vũ trang (biên phòng), du kích xã và dân quân - tự vệ.
Lực lượng tinh nhuệ nhất của phía Việt Nam đứng chân trên khu vực biên giới Việt-Trung là Sư đoàn 3 (đóng ở Lạng Sơn) và sư đoàn 316A (đóng tại Sa Pa). Ngoài ra, còn có các sư đoàn 346 ở Cao Bằng, 325B ở Quảng Ninh, 345 ở Lào Cai, sư đoàn 326 ở Phong Thổ, Lai Châu.
Lực lượng độc lập của ta gồm các trung đoàn 141, 147, 148, 197, trung đoàn pháo binh 68, các trung đoàn quân địa phương 95, 121, 192, 254 và 741.
Để đối phó với lực lượng tấn công tới 60 vạn quân của Trung Quốc, lúc đó lực lượng phòng thủ biên giới của chúng ta chỉ có tổng cộng khoảng 7 vạn quân.
Trong mấy ngày sau, Bộ quốc phòng đã quyết định điều động thêm 2 sư đoàn của Quân khu III (sư 327) và Quân khu IV (sư 337) tăng viện cho Quân khu 1, tuy nhiên mãi đến cuối giai đoạn 2, lúc cuộc chiến sắp tàn thì sư đoàn 337 mới triển khai quân tham chiến.
Ngoài ra, chủ lực của Quân đoàn 1 và Quân đoàn 2 cũng chỉ lên biên giới khi quân Trung Quốc tuyên bố rút quân. Do đó, từ ngày 17-2 đến ngày 5-3, lực lượng chủ chốt trong thế trận phòng thủ biên giới của quân dân ta chính là các lực lượng phòng thủ tại chỗ này.
Điều này càng cho thấy một thực tế là chỉ bằng các lực lượng phòng thủ tại chỗ của các Quân khu I và II, quân và dân ta đã anh dũng đánh bại chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của Trung Quốc. 


Bức huyết thư của một cựu binh xung phong tái ngũ giết giặc
Lực lượng tăng cường cho các Quân khu
Cuộc chiến nổ ra giữa lúc phần lớn các quân đoàn dự bị chiến lược đang còn ở mặt trận Tây Nam. Để tăng cường sức mạnh, Bộ Quốc phòng đã huy động lực lượng tuyến sau lên.
Ngày 18-2, Quân khu III tổ chức bổ sung sư đoàn bộ binh 327 (gồm Trung đoàn bộ binh 42, 75, 540 và Trung đoàn pháo binh 120) từ Quảng Ninh lên lên biên giới phía bắc tham gia chiến đấu trong đội hình Quân khu I.
Đến 19-2, Quân khu IV cũng được lệnh triển khai sư đoàn 337 (gồm Trung đoàn bộ binh 4, 52, 92 và Trung đoàn pháo binh 108) tiếp viện cho Quân khu I. Sư đoàn đã hành quân bằng cả tàu hỏa và xe vận tải từ Nghệ An ra bắc, lên tiếp viện thẳng cho mặt trận chính ở Lạng Sơn.
Ngày 25 tháng 2, Quân đoàn 14 thuộc Quân khu I, Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng Bộ chỉ huy thống nhất Lạng Sơn được thành lập tại Mai Sao, lực lượng bao gồm các Sư đoàn 3, 327, 338, 337 và sau này có thêm Sư đoàn 347 cùng các đơn vị trực thuộc khác.
Bắt đầu từ ngày hôm đó, các đơn vị này đều được triển khai phòng thủ tại điểm nóng nhất lúc này là mặt trận Lạng Sơn (trừ sư 337 đang từ Quân khu IV ra, mãi đến ngày 2-3 mới triển khai xong đội hình ở khu vực cầu Khánh Khê).
Bộ Quốc phòng còn tăng viện thêm Trung đoàn pháo phản lực 204 (có một tiểu đoàn pháo phản lực BM-21 vừa được Liên Xô viện trợ) Trung đoàn đặc công 198, Trung đoàn 98 thuộc Sư đoàn công binh 473, Lữ đoàn công binh 229 (đoàn Sông Đà), đơn vị súng phun lửa của Trung đoàn phòng hóa 86…, cho chiến trường Lạng Sơn.


Bộ đội Việt Nam hành quân ra mặt trận
Ngoài ra, Quân khu I chủ động điều lực lượng dự bị tăng cường cho các hướng. Trung đoàn 197 Bắc Thái được phái đến chi viện cho hướng thị xã Lạng Sơn và Trung đoàn 196 Hà Bắc bổ sung lực lượng cho hướng Đình Lập.
Quân khu I đã thành lập thêm Sư đoàn bộ binh 311 trên cơ sở Trung đoàn 38 Sư đoàn 473, được tuyển lựa thêm tân binh mới gia nhập quân ngũ và những cựu binh chiến tranh chống Mỹ vừa tái ngũ, đồng thời tiến hành các hoạt động tác chiến vào sâu trong hậu phương địch.
Hướng Cao Bằng được tăng cường Trung đoàn 183 Hải Hưng, Tiểu đoàn đặc công 45, tiểu đoàn pháo tầm xa 122mm của Lữ đoàn pháo binh 675, tiểu đoàn tên lửa chống tăng B72, Trung đoàn 38 của Sư đoàn công binh 473, Tiểu đoàn 126, 127 bộ đội địa phương tỉnh Bắc Thái (sau này tách thành tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn) cùng một số tiểu đoàn tự vệ của nhà máy gang thép Thái Nguyên, công ty xây lắp luyện kim...
Hướng Hoàng Liên Sơn cũng được tăng cường một số đơn vị, trong đó có tiểu đoàn pháo tầm xa của Lữ đoàn pháo binh 368...
Tính chung, tổng cộng 2 sư đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn đặc công, 2 tiểu đoàn pháo tầm xa và 25 tiểu đoàn dự nhiệm cùng nhiều đơn vị binh chủng và dân quân tự vệ các địa phương của Quân khu 1, 2, 3, 4 và Thủ đô Hà Nội đã được điều động lên biên giới tham gia chiến đấu hoặc sẵn sàng chiến đấu.
Lực lượng chủ lực chưa kịp tham chiến
Khi Trung Quốc nổ súng xâm lược, lực lượng chủ lực duy nhất ở ngoài bắc là Quân đoàn 1 triển khai lực lượng xây dựng một phòng tuyến bảo vệ thủ đô Hà Nội, chuẩn bị cho tình huống xấu nhất là Trung Quốc đột phá qua tuyến phòng thủ biên giới, tiến sâu xuống vùng châu thổ sông Hồng.
Đến giai đoạn 2 của cuộc chiến (theo tuyên bố của Trung Quốc), Việt Nam đã quyết định tung lực lượng chủ lực tham chiến.
Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang) - lực lượng chủ lực của Bộ quốc phòng, đang làm nhiệm vụ tại mặt trận biên giới Tây Nam ngày 27-2 được lệnh cơ động gấp toàn bộ lực lượng lên mặt trận biên giới phía Bắc tăng viện để quét sạch quân Trung Quốc.
Tuy nhiên, trước tình hình chiến sự ngày càng trở nên quyết liệt ở khu vực thị xã Lạng Sơn và phần lớn lực lượng chủ lực của Quân đoàn 2 chưa về kịp, vào ngày 3-3, Bộ Quốc phòng đã quyết định sử dụng đến các đơn vị chủ lực cơ động chiến lược của Quân đoàn 1 (tức Binh đoàn Quyết Thắng).
Ngày 3-3 Quân đoàn 1 điều động Sư bộ binh 320B (sau này đổi thành 390 - đoàn Đồng Bằng, gồm Trung đoàn bộ binh 27, 48, 64 và Trung đoàn pháo binh 54) được tăng cường Trung đoàn bộ binh 209 (đoàn Sông Lô) thuộc Sư đoàn bộ binh 312 (đoàn Chiến Thắng) và tiểu đoàn pháo tầm xa 130mm của Lữ đoàn pháo binh 45 (đoàn Tất Thắng) cấp tốc hành quân lên Lạng Sơn.


Lực lượng pháo binh Việt Nam giáng trả cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc
Tối 4-3, các đơn vị này đã triển khai sẵn sàng trên tuyến chiến đấu Chi Lăng-Đồng Mỏ-Hữu Kiên, nhưng chưa kịp tham chiến thì Trung Quốc tuyên bố rút quân, ngay sau khi Lệnh tổng động viên toàn quốc để quét sạch bè lũ xâm lăng của Chủ tịch nước Tôn Đức được công bố vào ngày hôm sau - 5/3.
Trong khi đó, các trung đoàn máy bay vận tải, trực thăng vận tải Việt Nam và Liên Xô đã dùng máy bay vận tải chuyên chở lực lượng của Quân đoàn 2 về mặt trận.
Tuy nhiên, việc bốc một số lượng lớn bộ binh và vũ khí trang bị từ khoảng cách rất xa là điều không hề đơn giản, nên mãi đến khi quân Trung Quốc sắp rút hết về nước thì lực lượng chủ lực của quân đoàn này mới kịp triển khai lên biên giới.
Cuộc chuyển quân thần tốc bằng cả đường biển, đường bộ, đường sắt và đường không bắt đầu từ ngày 6-3, đến 11-3 những đơn vị đầu tiên của quân đoàn gồm Sư đoàn bộ binh 304 (đoàn Vinh Quang), Lữ đoàn pháo binh 164 (đoàn Bến Hải), Lữ đoàn phòng không 673, tiểu đoàn trinh sát… đã về tới Hà Nội.
Theo dự kiến ban đầu, hai sư đoàn 320B và 304 sẽ phối hợp phản công trên hướng Bản Chắt (Đình Lập) nhưng do về muộn nên lúc đó, quân đội Trung Quốc đã rút chạy, sau khi ta tuyên bố tung một phần lực lượng của Quân đoàn 1 lên biên giới.
Sau khi chiến dịch hiệp đồng phản công của 2 sự đoàn này được ngừng lại, một bộ phận của Sư đoàn 304 đã kịp thời chuyển lên tham gia đánh địch tại Trà Lĩnh (Cao Bằng). Ngoài ra, các sư 337, 338 cũng kịp tham gia các trận truy kích tàn quân Trung Quốc rút lui qua ngả Chi Mã.


Chủ lực Việt Nam chưa kịp tham chiến thì Trung Quốc đã tuyên bố rút quân
Thực tế cho thấy, khả năng dự báo trước tình hình của chúng ta là chưa tốt nên bị động trong thời gian đầu cuộc chiến.
Tuy nhiên, điều này lại làm nổi bật khả năng huy động lực lượng tại chỗ, khả năng điều chuyển các đơn vị dự bị, khả năng tái cơ cấu các đơn vị rút lui từ chiến trường ra và thành lập các đơn vị mới phù hợp với đặc điểm tình hình của Việt Nam là rất tốt.
Việc chỉ sử dụng lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích tại chỗ và một số ít lực lượng tăng viện tham chiến đã cho thấy, quân và dân các tỉnh phía Bắc Việt Nam đủ sức chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc mà vẫn chưa dùng đến quân chủ lực.
Với lực lượng chỉ bằng gần 1/6, 1/7 của kẻ thù lại phần lớn là dân quân du kích nhưng Việt Nam đã gây tổn thương nặng cho quân địch cả về lực lượng và trang bị, đẩy lùi chúng ra khỏi biên giới, bảo vệ thắng lợi miền Bắc, viết thêm một trang sử hào hùng trong lịch sử chống ngoại xâm phương Bắc của dân tộc.

4. Quốc tế chứng minh Trung Quốc thảm bại...

Tuy chưa đồng nhất về số liệu, nhưng đa số các học giả nước ngoài đều thống nhất nhận định, TQ đã thất bại trong chiến tranh xâm lược VN 17-2-1979.

Quốc tế đánh giá về thiệt hại của 2 phía
Hiện nay có rất nhiều nguồn tư liệu không đồng nhất về con số thương vong của quân đội hai nước. Trong đó, Trung Quốc tuyên bố họ là người chiến thắng với thương vong rất thấp, còn Việt Nam đánh giá đây là thất bại nặng nề nhất trong lịch sử hàng ngàn năm Trung Quốc xâm lược Việt Nam.
Còn phần lớn các học giả và các nhà nghiên cứu trên thế giới đều cho rằng, ít nhất Trung Quốc cũng gánh chịu thiệt hại gấp đôi Việt Nam. Với số lượng binh lính, vũ khí trang bị áp đảo, cùng với lợi thế bất ngờ, đó quả thực là một thất bại thảm hại của Trung Quốc.
Sau khi cuộc chiến tranh xâm lược kết thúc, Tướng Ngũ Tu Quyền, Phó tổng tư lệnh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã tuyên bố rằng, số quân Việt Nam bị chết và bị thương là 50.000, trong khi con số tương ứng của Trung Quốc là 20.000.
Một số nguồn tin khác của Trung Quốc còn rêu rao chiến thắng vĩ đại của quân đội nước này với tổn thất rất ít là 8.531 người chết và khoảng 21.000 bị thương.
Tuy nhiên, những công bố này đã nhanh chóng bị chính những cựu quân nhân Trung Quốc và những học giả quốc tế, những phóng viên chiến trường người Liên Xô, người Pháp… đã từng lăn lộn trên biên giới Việt-Trung năm 1979 phản bác.
Theo nhà sử học người Pháp Gilles Férier viết trong cuốn “Gilles Férier. Les trois guerres d'Indochine” (tạm dịch: “Gilles Férier. Ba cuộc chiến tranh ở Đông Dương”) do Nhà xuất bản Đại học Lyon xuất bản năm 1993, có khoảng 25.000 lính Trung Quốc thiệt mạng và gần 500 xe bọc thép hoặc pháo bị phá hủy, con số này phía Việt Nam cũng là gần tương tự nhưng thấp hơn một chút.
Đại tá Russell D. Howard thuộc Học Viện An Ninh Quốc Gia của Không Quân Hoa Kỳ cho rằng, quân Trung Quốc thương vong cỡ 60.000 người, trong đó số chết là 26.000. Cuộc chiến tuy ngắn ngày nhưng cũng đã tiêu tốn của nước này khoảng 1,3 tỷ USD và làm ảnh hưởng lớn tới quá trình cải tổ kinh tế.
Một số nguồn khác cũng đồng ý với con số thương vong ít nhất khoảng 50.000 của phía Trung Quốc. Trong đó, nhà nghiên cứu King Chen (Đài Loan, Trung Quốc) cho biết, chỉ tính riêng tại các bệnh viện lớn ở Quảng Tây đã có ít nhất 30.000 thương binh Trung Quốc.
Tháng 4 năm 1979, Báo Quân đội Nhân dân của Việt Nam ước lượng tổng thương vong của quân Trung Quốc là 62.500 người, phía Việt Nam có hàng nghìn binh lính và dân thường chết và bị thương. Con số này tương đối phù hợp với đánh giá của Tạp chí Time của Mỹ.
Theo tạp chí này thì có khoảng dưới 10.000 quân nhân Việt Nam thiệt mạng, còn Trung Quốc là trên 20.000.
Theo tuyên bố chính thức của phía Việt Nam (còn giữ nguyên cho đến ngày nay), thành tích chiến đấu của quân đội ta như sau:
Mặt trận Lạng Sơn: Diệt 19.000 lính Trung Quốc, phá hủy 76 xe tăng, thiết giáp và 52 xe quân sự, 95 khẩu pháo-cối và giàn phóng hoả tiễn, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 4 tiểu đoàn (có hơi khác biệt so với kí sự Sư đoàn Sao Vàng).
Mặt trận Cao Bằng: Diệt 18.000 lính Trung Quốc, phá hủy 134 xe tăng, thiết giáp và 23 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 7 tiểu đoàn.
Mặt trận Hoàng Liên Sơn (Khi đó bao gồm Lào Cai và Yên Bái, chiến sự chỉ diễn ra ở Lào Cai): Diệt 11.500 lính Trung Quốc, phá hủy 66 xe tăng, thiết giáp và 189 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn.
Mặt trận Quảng Ninh, Lai Châu và Hà Tuyên: (Khi đó gồm Hà Giang và Tuyên Quang, chiến sự diễn ra ở Hà Giang) diệt 14.000 lính Trung Quốc, phá hủy 4 xe tăng, thiết giáp, 6 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn địch.
Tổng số, quân đội ta đã diệt 62.500 tên địch (bình quân mỗi ngày có 1 trung đoàn Trung Quốc bị loại khỏi vòng chiến); phá hủy 280 xe tăng, xe thiết giáp và 270 xe quân sự các loại, 115 khẩu pháo cối và dàn phóng hỏa tiễn các loại. Trung Quốc đã tiêu hao mất 1,06 triệu quả đạn pháo, 23,8 ngàn tấn đạn, 55 triệu viên đạn cá nhân.


 
Hai chị em cháu bé cùng bà con sơ tán khỏi thị xã Cao Bằng khi quân Trung Quốc tấn công vào đây sáng 17-2-1979
Tuy nhiên, cuộc chiến cũng đã gây ra những thiệt hại nặng nề về quân sự và kinh tế cho Việt Nam, mà hậu quả của nó chúng ta đã phải mất tới hàng chục năm mới khắc phục được.
Các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường (Lào Cai) bị hủy diệt hoàn toàn, khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân các tỉnh biên ải bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống; 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000ha hoa màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp.
Về lâu dài, nó mở đầu cho hơn 10 năm căng thẳng trong quan hệ và xung đột vũ trang dọc biên giới giữa hai quốc gia.
Nhiều cột mốc biên giới cũng bị quân Trung Quốc phá hủy, gây khó khăn cho việc hoạch định biên giới sau này. Các cơ sở hạ tầng 6 tỉnh biên giới bị tàn phá rất lâu mới khôi phục được, đời sống sinh hoạt và sản xuất của người dân vùng biên giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Ngoài ra, Việt Nam còn phải gánh chịu nhiều khó khăn, thiệt hại do thái độ hằn học và chính sách thù địch, vây hãm mà Trung Quốc và những đồng minh mới của Bắc Kinh gây ra trên các mặt trận quân sự, kinh tế, ngoại giao.


 
Đường phố và nhà cửa của nhân dân các thị trấn vùng biên bị tàn phá tan hoang sau cuộc chiến
Quốc tế đánh giá thế nào về kết quả của cuộc chiến tranh 1979?
Sau khi bắt đầu xâm lược Việt Nam, khả năng chống đỡ của quân và dân Việt Nam vượt qua khả năng dự đoán của Đặng Tiểu Bình và các tướng lĩnh của quân đội Trung Quốc, khiến họ hoảng loạn không tìm ra được kế sách gì đối phó với cuộc chiến tranh nhân dân của chúng ta.
Theo một số chuyên gia quân sự nước ngoài, với lợi thế bất ngờ cùng sự áp đảo về quân số và trang bị, Đặng Tiểu Bình cho rằng, kết quả kém nhất thì trong tuần đầu tiên Trung Quốc cũng sẽ chiếm được 5 tỉnh của Việt Nam, nếu thuận lợi hơn sẽ dẫn cuộc chiến tranh xâm lược phát triển theo hướng khác.
Môt ví dụ như: Nếu diễn biến chiến tranh thuận lợi, mở được một đột phá khẩu xuyên qua biên giới trong vài ngày đầu, Bắc Kinh sẽ xua quân tiến xuống đồng bằng, có thể sẽ không đánh xuống quá sâu nhưng cũng thể hiện rõ thực tế là Trung Quốc có thể uy hiếp Hà Nội bất cứ lúc nào. (Về ý kiến này, chúng ta sẽ đề cập cụ thể trong các kỳ tiếp theo).
Cuối tháng 12 năm 1978, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc Túc Dụ báo cáo tại Hội nghị lần 3 của Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XI rằng, chỉ cần dùng một phần lực lượng của các Đại quân khu Quảng Châu và Thành Đô là đủ để đánh chiếm Hà Nội trong vòng 1 tuần.
Trong thực tế, quân Trung Quốc đã cần tới 16 ngày, huy động 10 sư đoàn thuộc 6 quân khu (lực lượng gần bằng tổng binh lực hai Đại quân khu Quảng Châu và Thành Đô) lần lượt tham chiến để đánh chiếm thị xã Lạng Sơn, một thị xã chỉ cách biên giới 15 km.
Những lúc cao điểm, Trung Quốc tập trung ở hướng Lạng Sơn tới 6 sư đoàn đồng loạt tấn công nhưng không đánh nổi 2 sư đoàn Việt Nam. Trung bình mỗi ngày quân Trung Quốc chỉ tiến được 0,9 km và họ đã mất tới 16 ngày chỉ để chiếm được 1/10 quãng đường tới Hà Nội.
Thực tế là sau 3 tuần huy động tối đa lực lượng đánh với bộ đội địa phương và dân quân du kích Việt Nam quân đội Trung Quốc mới chiếm được Lạng Sơn. Sau đó, do số thương vong quá lớn và chủ lực ta đã lên đến biên giới nên Trung Quốc buộc phải rút quân.
Học giả King Chen của Đài Loan đánh giá, bên cạnh thành công trong việc bám theo được khá sát các kế hoạch tiến quân và rút quân, quân đội Trung Quốc không hoàn thành được những mục đích đã đề ra, nhiều nhất chỉ đạt được một nửa các mục tiêu, chủ yếu là về khía cạnh phá hủy kinh tế Việt Nam.
Về quân sự: Điểm yếu của quân Trung Quốc là thiếu kinh nghiệm chiến đấu, tinh thần kém, không phát huy được thế mạnh về lực lượng và trang bị. Ngoài ra, vấn đề quan trọng nhất là họ không lường trước được thế trận phòng thủ nhân dân của Việt Nam hiệu quả đến mức nào.
Với quân số và vũ khí áp đảo, quân Trung Quốc đã không tiêu diệt được sư đoàn nào của Việt Nam, mà còn bị đánh tiêu diệt hoặc thiệt hại nặng nhiều đơn vị cấp tiểu đoàn, trung đoàn. Trung Quốc đã tự bộc lộ trình độ tác chiến yếu kém trước toàn thế giới.
Một trong số các mục đích ban đầu của Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) là hạ bệ được uy thế lẫy lừng, đánh bại 2 cường quốc (Pháp, Mỹ) của Quân đội Nhân dân Việt Nam, trên thực tế, quân đội Trung Quốc đã tự điền thêm tên mình vào vị trí thứ 3.
Về mặt ngoại giao, cuộc chiến của Trung Quốc đã tạo ra được hiệu quả gì? - không gì cả! Nó không thể cắt đứt được mối quan hệ hữu nghị Việt-Xô; không buộc được Việt Nam rút quân khỏi mặt trận biên giới Tây Nam; ngược lại, bộ mặt xâm lược giả dối của Bắc Kinh lại bị lật tẩy qua cuộc chiến này.
Một luồng ý kiến đánh giá khác là của tác giả Edward C. O'Dowd, thể hiện trong cuốn sách "Chiến lược quân sự Trung Quốc trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ 3" đã đánh giá rằng, quân Trung Quốc đã thể hiện trình độ chiến đấu rất yếu kém trong cuộc chiến.
Tại Lạng Sơn, 2 Tập đoàn quân (tương đương 6 sư đoàn chủ lực và nhiều trung đoàn hỏa lực, phục vụ) Trung Quốc đã bị một trung đoàn Việt Nam (tư liệu này cả ông O'Dowd có thể chưa chính xác, có thể đó là sư đoàn 3) cầm chân trong 1 tuần, một Tập đoàn quân khác cần 10 ngày để lấy Lào Cai và Cam Đường - hai đô thị trước thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, cách biên giới không đến 15 km.


 
Trung Quốc đã bất lực trước thế trận phòng thủ nhân dân của Việt Nam
Trung Quốc chiếm Cao Bằng vất vả đến mức cần ít nhất 2 Tập đoàn quân để tiếp tục tấn công thị xã mà mà trước đó Trung Quốc tuyên bố đã chiếm được ngay mấy ngày đầu của cuộc chiến.
Tại Quảng Ninh, một trung đội Việt Nam đã cầm chân một trung đoàn Trung Quốc đang trên đường chiếm núi Cao Ba Lanh giáp biên giới trong suốt 5 tiếng đồng hồ, gây thương vong cho 360 trong tổng số 2800 quân của trung đoàn này.
Những tổn thất nhân mạng như vậy lặp lại trên toàn mặt trận đã cho thấy quân đội Trung Quốc đã không có chiến thuật thích hợp để phát huy được ưu thế về quân số một cách hiệu quả, do đó không thể đạt được tốc độ hành binh như mong muốn trong chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh”.
Đây là hậu quả của sự lạc hậu về chiến thuật tác chiến của quân đội Trung Quốc vốn gần như không được cải thiện kể từ sau chiến thuật “biển người”, “biển hỏa lực” ở chiến tranh Triều Tiên những năm 1950.
Không chỉ những học giả nước ngoài mà ngay cả trong giới chức lãnh đạo chóp bu của nước này như Đặng Tiểu Bình, Diệp Kiếm Anh…, cũng đã buộc phải thừa nhận thất bại cay đắng của quân đội Trung Quốc (tuy bề ngoài vẫn tuyên bố là “chiến thắng”, “đạt mục đích đề ra”).
Theo bản dịch bài phát biểu của Đặng Tiểu Bình trong hội nghị quân chính nội bộ ngày 16-3-1979 (sau khi rút quân về nước 1 tháng), do ông Dương Danh Dy dịch và gửi tới BBC vào năm 2011, Đặng Tiểu Bình đã bày tỏ thái độ rất không hài lòng về kết quả yếu kém của cuộc chiến tranh xâm lược.
Đặng chỉ trích gay gắt các quan chức chính quyền và các lãnh đạo quân đội: "Đánh lần này vũ khí, quân số đều gấp mấy lần Việt Nam. Chiến đấu ở Cao Bằng chí ít là 5 đánh 1, 6 đánh 1. Chiến đấu ở Lạng Sơn, Lào Cai cũng đều gấp mấy lần, thậm chí 6 đánh 1, 7 đánh 1…" nhưng "…thương vong của chúng ta gấp 4 lần so Việt Nam. Thần thoại của chúng ta đã bị hủy diệt” (ý nói về uy thế của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc).

 Nguồn Baodatviet
Lên đầu trang
Vào giữa trang
Xuống cuối trang